Nền văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh có lịch sử lâu đời nhất và kéo dài nhất trên thế giới. Nó đã trở thành biểu tượng đặc sắc về mặt tinh thần của dân tộc Trung Quốc, là cơ sở hình thành văn hóa Trung Quốc đương đại. Vậy bạn có biết nền văn minh này bắt nguồn từ đâu và đã trải qua những biến động gì không? Hãy cùng HiCampus tìm hiểu nhé!
Nền văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh có lịch sử lâu đời nhất và kéo dài nhất trên thế giới. Nó đã trở thành biểu tượng đặc sắc về mặt tinh thần của dân tộc Trung Quốc, là cơ sở hình thành văn hóa Trung Quốc đương đại. Vậy bạn có biết nền văn minh này bắt nguồn từ đâu và đã trải qua những biến động gì không? Hãy cùng HiCampus tìm hiểu nhé!
Nền văn minh Trung Hoa (văn minh Hoa Hạ) chỉ nền văn minh do người Hoa Hạ sáng tạo ra.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khảo cổ học về thời gian và địa điểm hình thành nên nền văn minh Trung Hoa. Một trong số đó cho rằng nền văn minh này hình thành vào cuối thời văn hóa Ngưỡng Thiều và đầu thời văn hóa Long Sơn.
Trung Quốc là một trong những nơi đầu tiên phát hiện ra dấu vết đầu tiên của con người. Từ khoảng 8 triệu năm về trước, loài vượn cổ đã sống ở các vùng Khai Nguyên, Lộc Phong của Vân Nam. Trải qua thời gian tiến hóa, chúng đã trở thành người nguyên thủy và sống tập trung thành các thị tộc và bộ lạc như: người Nguyên Mưu, người Lam Điền, người Bắc Kinh,…
Trung Quốc là đất nước có nền văn minh huy hoàng và lâu đời. Từ khi bắt đầu xuất hiện nền văn minh, Trung Quốc đã trải qua nhiều triều đại như Hạ, Thương, Tây Chu, Tần, Hán, Tam Quốc, Đường, Tống, Nguyên, Thanh,… Mỗi triều đại sẽ có những cách cai trị khác nhau, tạo nên những giá trị khác nhau trên vũ đài lịch sử.
Dân tộc Trung Hoa là một dân tộc bất khuất và kiên cường. Họ có tinh thần cầu tiến và trí tuệ ưu việt. Họ đã tạo nên một nền văn minh vật chất và tinh thần vô cùng huy hoàng. Từ đó tạo cơ sở cho Trung Quốc ngày nay phát triển thần tốc.
Một nền văn minh huy hoàng và lâu đời luôn có trong mình những giá trị xuất sắc về văn hóa, tinh thần hoặc vật chất để truyền lại cho thế hệ sau. Những giá trị này tuy đã trải qua hàng nghìn năm nhưng vẫn sẽ luôn có nhiều giá trị cần học hỏi. Sau đây hãy cùng HiCampus điểm qua một số giá trị nổi bật của nền văn minh Trung Hoa nhé!
Cốt lõi tư tưởng của nền văn minh Trung Hoa là việc thiết lập các giáo lý Thần đạo, giáo dục lễ nhạc, khác biệt Hoa – Di. Đồng thời cũng đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Ngoài ra, Dịch học là căn bản của nền văn minh Trung Hoa rộng lớn và sâu sắc.
Bách gia chư tử có đặc điểm chung là đều kế thừa sự giáo dục về thi họa lễ nhạc của hoàng gia, đều tôn trọng lễ nghi quân thần phụ tử và sự khác biệt vợ chồng con cái. Vào thời Xuân Thu, khi hoàng thất suy tàn, chư hầu tranh quyền đoạt lợi, các học giả đã đi khắp nơi để vạch ra kế hoạch và mưu lược, vì vậy đến thời Chiến Quốc đã xuất hiện cục diện “bách gia tranh minh”(百家争鸣).
Sự phân chia bách gia đã xuất hiện từ thời cha của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm. Trong cuốn “Luận lục gia yếu chỉ”, ông đã chia bách gia thành 6 loại: Âm dương, Nho, Mặc, Danh, Pháp, Đạo. Sau này, Lưu Hâm đã thêm vào 4 loại khác là: Tung hoành, Tạp, Nông, Tiểu thuyết. Sau này, “Tiểu thuyết” đã không còn được công nhận, từ đó chỉ còn 9 phái gọi là “cửu lưu”.
Thi, thư, lễ, nhạc, dịch hợp thành Ngũ kinh, Ngũ kinh tương ứng với Ngũ thường. Ngũ thường bao gồm: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Theo đó, người nhân là người biết nhường nhịn và yêu thương người khác. Người nghĩa là người quyết đoán và công bằng. Người lễ là người khéo léo, cư xử đúng mực. Người trí là người biết phân biệt đúng sai phải trái. Người tín là người chân thành và giữ lời hứa.
Lục kinh là 6 cuốn sách cổ được Khổng Tử biên soạn và giảng dạy dưới thời tiên Tần. Trong đó bao gồm: Thi, thư, lễ, dịch, nhạc, Xuân Thu. Sáu cuốn sách này không phải do Khổng Tử viết mà ông chỉ biên soạn và chỉnh sửa lại.
Lục kinh chính là sự kết thừa và phát triển của nền văn minh Trung Hoa. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đến nay những bộ sách này vẫn còn đang được nghiên cứu và giảng dạy.
Xem thêm: Du học Trung Quốc ngành Lịch sử học
Người ta thường nói: “Lịch sử là một tấm gương”. Lịch sử Trung Quốc cổ đại phong phú đang để lại vô số kinh nghiệm và bài học bổ ích cho thế hệ mai sau.
Trong bài viết này, HiCampus đã giới thiệu với các bạn thông về nền văn minh Trung Hoa. Hi vọng rằng thông qua bài viết này, các bạn đã tiếp thu thêm được nhiều kiến thức mới. HiCampus chúc bạn sẽ có một mùa du học thành công!
I . Thời Trung Cổ (TK 4 và 5 – TK 14 và 15, khoảng 1000 năm)
Trong thời kỳ mông muội, con người lo giải quyết những vấn đề trước mắt như đánh bại kẻ thù; xây dựng lại 1 nền kinh tế; làm sao để tồn tại, cho đến khi thoát khỏi tình trạng hỗn loạn; thiết lập trật tự xã hội mới để có thể tái thiết lại châu Âu
Thuật ngữ “Thời Trung cổ” bắt đầu thời Phục Hưng. Vào TK 14 và 15, người dân cảm thấy sắp vượt qua thời kỳ đen tối bước vào 1 thế giới mà có thể so sánh nó với thời kỳ rực rỡ nhất của thế giới cổ đại hoặc gần như vậy. Những TK tăm tối bỏ lại sau lưng đã không còn xứng đáng để được gọi với 1 cái tên đặc biệt, họ chỉ gọi đó là Thời Trung cổ. Bây giờ chúng ta nhận ra, thời kỳ này cũng mang tính đột phá, và trong khoảng 1.000 năm hay hơn, sau sự sụp đỗ Đế chế Tây La Mã, châu Âu đã mang hình dáng và những nét đặc trưng như chúng ta biết ngày nay. Thời Trung cổ bắt đầu TK 4 và 5 với cuộc chạm trán giữa 2 tộc người và 2 xã hội: người Đức và người La Mã.
Vào thời gian này, khi người Đức xâm lược đế chế La Mã và tràn qua Pháp, Tây Ban Nha, Anh và Ý. Rome cũng chẳng là gì ngoài 1 hệ thống cũ nát, tồi tàn và 2 xã hội thật ra chẳng khác nhau mấy. Từ TK 3 và 4, sự giảm sụt nhân số và kinh tế, tiêu hao dần mạng lưới đường xá và các thành phố. Các quân đoàn được thiết lập để bảo vệ tôn giáo La Mã bị giảm dần. Cả về tiện nghi và văn hóa của dân thành phố bị giảm. Sau đó khi nền văn minh đô thị của đế chế bị rạn nứt, những nhóm người tiền La Mã, tiền chiếm hữu nô lệ và nông dân đã xuất hiện trở lại. Các thị tộc và các nhóm tập họp quanh các chủ đất lớn, quanh các Trưởng làng hoặc tù trưởng bộ lạc, những người đưa ra những nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ xã hội. Các lãnh chúa địa phương sống trong các biệt thự lớn trên các vùng đất ở nông thôn của họ, đã trở thành quyền lực thực tế ở nông thôn. Và các vùng nông thôn đã trở thành như nó vốn có trước các cuộc chinh phục La Mã – nền tảng thực sự của kinh tế. Theo thời gian, sau vài thế kỷ, nó trở thành toàn bộ nền kinh tế.
Sự khác nhau của 2 xã hội: Thay đổi này là gốc rễ của các thị trấn mà ta thường liên tưởng sự văn minh. Nhưng nó hiếm thấy hơn ở nông thôn, nơi nhịp sống riêng luôn được duy trì, bất kể người sống ở đó là ai. Các bộ lạc man tộc, mang nét văn hóa của riêng họ. Họ ăn súp và uống bia. Họ hiếu chiến hơn và ít kỷ luật hơn, hướng tới sự tự do cá nhân hơn và trừu tượng hơn trong các hình thức nghệ thuật của họ so với dân đế chế phương Tây. Những người ăn bánh mì, uống rượu vang, sử dụng tiền mặt và xây dựng nhà cửa bằng đá. Nhưng điều đó không ngăn cản những tộc trưởng man rợ giành lấy 1 vài biệt thự của họ và 1 vài thành phố của họ và chấp nhận những cái tốt của 1 nền văn minh sắp tàn.
Sự giống nhau của 2 xã hội: Điểm cốt lõi là 2 xã hội – của kẻ xâm lược mọi rợ và của người bản địa – là 2 xã hội khá tương đồng. Cả 2 đều có nông thôn, đều chiếm hữu nô lệ, cả 2 đều bị chi phối bởi tầng lớp quý tộc lớn, hầu như tàn bạo như nhau. Tầng lớp quý tộc Pháp đã trở thành Pháp – La Mã sau khi bị La Mã chinh phục TK 1 BC. Cùng cách đó, 1 phần nền văn minh Pháp – La Mã đã bị mai một trong tầng lớp quý tộc Đức TK 5 và 6. Và rất nhiều tính dã man của người Đức cổ cũng bị mai một vào thời Pháp – La Mã. Do đó có 1 vài sự hội nhập giữa 2 nhóm, đặc biệt là ở thượng tầng. Nhưng chủ yếu là hội nhập từ trên xuống hướng tới mẫu thức chung thấp nhất.
Nền kinh tế nguyên thủy, nền kinh tế nông – quân sự. Sản xuất ở mức đủ sống và chỉ có nguồn lợi thật sự duy nhất là trộm cướp. Do đó động lực kinh tế nhờ những phát minh mới như cái ách, cày hạng nặng, cái quay tay. Dẫn đến các bộ lạc có thể trang bị tốt hơn để xây dựng các tiểu bang mới: người Saxon ở Anh, Lomba ở Ý, Frank ở Pháp. Trong những tiểu bang này, uy tín và nổi tiếng nhất là đế chế Carolingian mà Charlemagne đã đưa nó lên đỉnh cao. Thực ra đế chế Carolingian là gì? Thủ lĩnh của gia tộc hay của 1 làng lớn với tính tự phụ chung. Trong suốt thời Trung cổ, các thủ lĩnh chiến tranh có tài năng và sắc sảo, sẽ gia tăng sức mạnh của họ bằng chiến tranh. Sau khi chết, toàn bộ thành quả của mình sụp đỗ như những ngôi nhà xây bằng lá bài, bởi vì người thừa kế ko duy trì được. Ngay cả đế chế của Charlemagne cũng ko thoát điều này.
Thu nhậpcủa các vương quốc Bắc Âu là từ cướp bóc không phải từ thu thuế: Mỗi mùa xuân, trên toàn châu Âu, 1 vị vua sẽ kêu gọi lãnh chúa các thái ấp của họ, theo ông chiến đấu, những cuộc viễn chinh cướp bóc, ra những mặt trận xa và xa xôi. Hầu hết thu nhập của vua, không phải từ thuế, không có những người thu thuế, thay vào đó, những thứ cướp bóc từ các vị vua khác, hoặc những lãnh chúa ngoài lãnh thổ. Đó cũng là cách để thu nhập lãnh chúa tăng lên. Thực phẩm, chất đốt của vua và lãnh chúa và mọi người ở tầng lớp trên (hiệp sĩ, giám mục, linh mục) là từ đất, từ các nông dân sản xuất. Nhưng nó chỉ đủ sống. Chứ không đủ trả cho vũ khí, xa xỉ phẩm hay gia vị. Chỉ được chi trả khi sử dụng bạo lực thành công. Nền kinh tế chức năng hoàn hảo, đặc biệt nếu bạn thích săn bắn người và động vật, đã mở ra những mối quan hệ riêng sự phục vụ, lòng trung thành, sự phục tùng của cá nhân.
Mối quan hệ 2 chiều Lãnh chúa và chư hầu( từ TK 5 – TK 19):
Tất cả đều dựa trên việc trao đổi các quà tặng và sự phục vụ: “ta bảo vệ ngươi, ngươi phục vụ ta”. “Tôi phục vụ ngài, ngài nuôi tôi”. “Ta cho ngươi đất, ngươi chiến đấu vì ta”. Nó là sự tác động 2 chiều. Kẻ mạnh tìm kiếm người để làm việc và chiến đấu cho mình. Nó trở nên rõ ràng hơn, với tất cả sự sắp xếp, mà trong đó 1 người đàn ông lệ thuộc vào người khác, điều cao cả nhất, đáng kính nhất là được phục vụ với 1 thanh kiếm, 1 cây thương và 1 con ngựa. Như 1 bầy tôi trung thành, ràng buột với chủ bằng các lời thề long trọng, 1 chư hầu hay thần dân và mối quan hệ này là nền tảng trong chế độ phong kiến đã phát triển và cai trị trên toàn châu Âu trong suốt thời Trung cổ và đã không thực sự biến mất ở nhiều nơi ở châu Âu cho đến TK 19. Trong thời loạn, bất kể 1 người đàn ông nào cũng là 1 chiến binh. Mặt khác, đồ trang bị lại đắt đỏ. Một chiếc mũ sắt bằng 3 con bò, 1 con ngựa bằng 18 – 20 con bò cái. Phải mất thời gian dài học điều khiển 1 con ngựa hiệu quả trong chiến tranh và trong bộ áo giáp nặng. Một tục ngữ Carolingian nói rằng: “Anh có thể thu nhận 1 chàng trai trẻ và đào tạo anh ta thành hiệp sĩ, nhưng muộn hơn thì đừng”.
Khoảng cuối TK 13, kỵ binh hạng nặng đã được công nhận như là vua của chiến trường: bàn đạp để đưa anh ta tấn công bộ binh, chém từ trên yên ngựa, có áo giáp nặng bảo vệ, ngựa là giảm nhọc sức, móng ngựa làm chân ngựa tiếp đất nhiều hơn, cả địa hình gồ ghề. Kỵ binh có thể đột kích bất ngờ, rút đi nhanh chóng, có thể di chuyển quanh đội hình bộ binh quá lớn để tấn công trực diện và chia cắt đội hình của họ, và phục kích họ. Tất cả ưu điểm này được Chalemagne nhận ra, đã làm tăng tỷ lệ kỵ binh trong đội quân nặng nề thời đó. Giá trị của kỵ binh được nhấn mạnh (không đề cập do phải đối phó với kỵ binh Arab).
“Northern Italian Cavalry, 12th-early 13th century
Khi đế chế Carolingian bị chia cắt vào TK 9 bởi những kẻ man rợ mới, hơn bao giờ hết, 1 người đàn ông phải tìm cho mình 1 lãnh chúa mạnh, người có thể gắn kết những người đàn ông. Mỗi lãnh chúa sẽ tìm những người đàn ông khỏe mạnh, những người có thể chiến đấu trên lưng ngựa. Chỉ đội kỵ binh mới có thể đánh bại người Viking, người Arab, Hungari. Nhưng những kẻ chuyên nghiệp đắt giá từ đâu đến? Ai sẽ trả tiền cho họ? Vào thời thương mại sa sút, tiền khan hiếm, thực phẩm thiếu thốn. Câu trả lời là 1 hệ thống các mối quan hệ dựa trên sự kính trọng, 1 người đàn ông lệ thuộc vào 1 người đàn ông khác và sự bảo vệ lẫn nhau.
Cuối cùng các mối quan hệ được công nhận như cấu trúc cơ bản của xã hội dưới chế độ nông nô, chư hầu và lãnh chúa. Sẽ đưa ra các giải pháp cho vấn đề kinh tế và hậu cần của xã hội nguyên thủy và mất trật tự tại châu Âu. Nhưng nó xảy ra không cùng lúc ở mọi nơi. Hệ thống phong kiến với những lợi ích nhỏ là 1 loạt các sắp xếp và những lời thề, nghi thức và thủ tục trong 1 thời gian dài bắt đầu từ TK 6 hoặc 7 và đạt đỉnh điểm sau đó 600 hoặc 700 năm. Những thứ này bao trùm từ gia đình của các thuộc hạ cho ăn và mặc và có thể được trang bị từ 1 ông chủ – lãnh chúa – trước thời Chalemagne, thông qua nhóm người phụ thuộc phần lớn thấy trong TK 9 và 10, ràng buột với lãnh chúa bằng 1 khoản phí hay tiền thu nhập, 1 món quà bằng tiền mặt, 1 khoản vay, 1 mảnh đất, thu nhập từ 1 mảnh đất, tới tận phạm vi của các hiệp sĩ cổ được đặt ra với 1 khoản trợ cấp đất anh ta tạm giữ, đó là tài sản của lãnh chúa đổi lại sự phục vụ của anh và các thuộc hạ của anh hoặc cho cuộc sống của anh. Do đó vào cuối TK 11, nó trở thành tài sản thừa kế trong gia đình. Bây giờ, tất cả loại hình khác do từ người làm, chủ yếu nông dân. Vì họ không có nhiều tiền mặt, bản chất bóc lột thức ăn, nhân công, vận tải, những sự phục vụ khác. Vào TK 10, những thủ đoạn nhằm bảo vệ chế độ phong kiến đủ nhiều để dập tắt những gì còn lại của tầng lớp nông dân tự do. Lãnh chúa lớn đặt ra quyền về thuế và thuế thập phân, đặc quyền săn bắn của ông ta, quyền trên những khu rừng và đất công của ông ta. Ông bắt nông dân xay ngũ cốc của họ trong nhà máy của ông ta. Nướng bánh mì của họ trong lò của ông ta, lấy cá trong những ngày ăn chay của họ trong ao của ông ta. Ông áp đặt luật của mình: quyền thẩm phán, phạt và trừng phạt. Có nghĩa không chỉ là sức mạnh mà còn lợi tức.
Đó là chế độ phong kiến, 1 sự mất trật tự có tổ chức, dành hỗ trợ cho các chiến binh chuyên nghiệp bằng cách bóc lột những kẻ không chuyên. Đó là Mô hình lý tưởng được hình thành hoàn chỉnh tương đối muộn trong lịch sử.
Đổi đất lấy sự phục vụ: Chư hầu đơn giản là 1 người đàn ông của người đàn ông khác, mối quan hệ phong kiến giữa lãnh chúa ban ra lệ phí và những người đã chấp nhận nó, và phục vụ lại ông ta. Lệ phí này có thể là tiền, hoặc lệ phí cầu đường trên 1 cây cầu hoặc 1 chổ cạn hoặc nhà máy, nhưng chủ yếu là đất. Ví dụ, giả sử bạn là chủ 1 tài sản lớn, bạn chỉ có thể bảo vệ nó nhờ những người đàn ông và vũ khí. Bạn có thể xây dựng 1 lâu đài, 1 pháo đài, bảo vệ bằng kẻ chuyên nghiệp, phải trả bằng. Trả bằng cách nào? Tiền mặt ít có sẵn: ngay cả các hoàng tử, các công tứơc lớn, thường nấu chảy các tấm kim loại lớn, hoặc cầm cố trang sức của gia đình khi cần 1 ít tiền mặt. Khi có tiền cũng không có cửa hàng để tiêu tiền. Không thể giữ nhiều đàn ông trong lâu đài, bởi vì cần nhiều thức ăn trong kho; vận chuyển nó thì khó khăn; ngay cả với vua, di chuyển giữa các thái ấp.
Vì vậy muốn có nhiều người theo mình, bạn phải cho họ đất và những nông nô trên đó, và họ sẽ chiến đấu cho bạn. Nói cách khác, đất đai là 1 loại tiền công, sẽ hoàn lại cho bạn khi anh ta chết hoặc ngừng phục vụ bạn. Trong trường hợp, từ con trai, hay con rễ, vì vậy qua các thế hệ, lúc đầu lệ phí cá nhân trở thành thừa kế, đất đai như là quyền lợi của thánh chức. Ban đầu, chư hầu tặng lãnh chúa 1 món quà. Chư hầu xem đất như tài sản riêng.
Chế độ phong kiến bắt đầu gặp khó khăn do khó khăn trong trao đổi quyền lợi, cần có tiền: Cuối cùng mọi thứ trở nên quá phức tạp. Thực tế, bạn có thể là người của nhiều lãnh chúa khác nhau. Bạn khó xử khi các lãnh chúa của bạn đánh nhau. Khoảng TK 11, khi người đàn ông đặt tay mình vào lãnh chúa. Lệ phí TK 12, tiền trở lại ý nghĩa riêng của nó. Một trăm năm sau, chúng ta thấy 1 giao kèo giải thích rõ ràng nghĩa vụ các bên ký giao kèo. Và đây là khởi đầu sự kết thúc. Chế độ phong kiến đã trở nên phức tạp để đối phó với các vấn đề của 1 nền kinh tế mà tiền tệ khan hiếm và các cấu trúc xã hội rộng hơn thì dễ sụp đỗ hoặc không tồn tại. Trả lời cho các vấn đề, bằng việc nhấn mạnh mối quan hệ cá nhân giữa những người đàn ông và trả công bằng hiện vật, bằng việc trao đổi sự phục vụ.
Nhưng khi nền kinh tế tiền tệ được thiết lập lại, trật tự xã hội tái xuất hiện. Sự sắp xếp trong xã hội phong kiến của 1 thời kỳ hỗn độn dần lộ ra. Mặc dù cố gắng thích ứng với điều kiện mới chúng vẫn trở nên lỗi thời. Tuy nhiên, vài thứ vẫn được giữ nguyên trong mối quan hệ phong kiến và đó là tầm quan trọng của các mối quan hệ cá nhân và các ảnh hưởng cá nhân.
Mối quan hệ thân thuộc mạnh đến nỗi, khi các nhà thơ miền Nam Pháp đưa ra ý tưởng tình yêu kiểu hiệp sĩ TK 12, họ bày tỏ lòng trung thành với 1 người yêu hoàn hảo dựa trên kiểu cống hiến của chư hầu và lãnh chúa của mình. Người yêu hoàn hảo là chư hầu hoàn hảo. Anh thề trung thành với quý cô của mình khi quỳ gối và tay đan vào nhau là biểu thị sự thần phục, đã trở thành những cử chỉ cầu nguyện, mà nó đã không có trước đây. Nói cách khác, bạn tỏ lòng kính trọng Chúa, đức Chúa Trời trên cao.
Cũng sống trong thời phong kiến và ghi lại tất cả điều này là các tu sĩ và thầy tu, những người là 1 phần trong tổ chức hệ thống quyền lực và quyết định đối với chính nền văn hóa. Họ giải thích những gì đã xảy ra, họ ghi lại các sự kiện, theo đó mà giải thích, và họ nói với vua những gì mà ông thực sự đang làm, cũng như những gì nên làm. Công việc ghi chép đầy thử thách này có nguồn gốc. Trong các di chúc cũ của Jewish, ví dụ như lễ đăng quang của David, có nguồn gốc từ các kinh điển Rome. Nó nhấn mạnh rằng, tầng lớp cai trị được chỉ định bởi Chúa Trời để thực hiện ý nguyện của Chúa trên mặt đất. Và ý nguyện của Chúa là lợi ích chung: việc thi hành đức tin của Cơ Đốc giáo, được quyết định bởi Nhà Thờ và sự áp đặt của pháp luật La Mã. Sau đó, nhiệm vụ của vua lãnh đạo những người dân được Cơ Đốc giáo cứu rỗi. Như Augustus Đại Đế mang lại hòa bình trên mặt đất, duy trì trật tự, bảo vệ kẻ yếu và người nghèo. Mô hình này được đưa ra bởi các giáo sĩ chống lại quyền lực thực tế của hoàng gia.
Nếu bạn biến vua thành 1 hoàng tử của hòa bình, bạn làm giảm thu nhập của ông ta và bạn làm suy yếu ảnh hưởng của ông trên các lãnh chúa. Những thủ lĩnh chỉ quan tâm đến chiến tranh và cướp. Nếu bạn để vua bảo vệ kẻ yếu và người nghèo, bạn đưa đến cho ông ta những đồng minh không có khả năng hỗ trợ và bạn đặt ông ta vào thế đối nghịch với các quý tộc – người có thu nhập từ công sức kẻ yếu và người nghèo.
Các ông chủ thật sự ở thời Trung cổ, sau tất cả, không phải là những người đàn ông của hòa bình mà là những người đàn ông biết cách chiến đấu và những người có ngựa và vũ khí để chiến đấu. Họ xây dựng pháo đài, lâu đài cho quốc phòng địa phương và phòng thủ cho chính họ. Nông dân có thể mất nơi ẩn náu trong các pháo đài của lãnh chúa. Nhưng trong các pháo đài thông thường không có phòng cho người tị nạn, cho gia súc của họ, cho toa xe của họ. Những người nông dân thực sự sống trong hoảng loạn với các cuộc tấn công và cướp bóc từ bên ngoài. Nhưng khi họ tìm nơi ẩn náu họ vào đồi, vào rừng. các lãnh chúa cung cấp nơi trú ẩn không an toàn. Chỉ đơn giản là bên trong rào bảo vệ. Nếu 1 người láng giềng đánh nông dân của họ hoặc cướp của họ, họ sẽ đánh lại nông dân của anh ta và cướp lại. Đây là vai trò của người bảo vệ, nó cho phép các lãnh chúa thu 1 phần hoa màu cố định trên các cây trồng của nông dân. Vì vậy ở đây chúng ta có 3 tầng lớp với lợi ích khác nhau và với các áp lực khác nhau: các lãnh chúa và thuộc hạ hung ác của họ, nông dân và các giáo sĩ.
Họ làm việc cùng nhau, cách họ chống nhau….
Vào năm 1000 sau công nguyên, xã hội được phân thành nhiều giai cấp như : giáo sỹ, nông dân hay hiệp sỹ.
Nhà quý tộc trong lâu đài. Vị mục sư trong Nhà Thờ. Người nông dân trong túp lều. Một kiểu xã hội đơn giản sẽ kéo dài hàng thế kỷ. Nhưng càng thành công trong việc thiết lập lại trật tự xã hội, nó càng khuyến khích các nguồn lực rất mạnh là thứ sẽ hủy hoại sức mạnh của nó. “Trật tự xã hội phong kiến”
Hình thức xã hội phong kiến, vào thời tiền Trung cổ những chư hầu nguyện trung thành với vị chúa tể của họ và chiến đấu cho họ. Đổi lại họ nhận 1 mảnh đất từ chúa tể, bao gồm cả tá điền. Vì thế, 1 mặt chúng ta có 1 tầng lớp quý tộc gồm vua và chư hầu, những người có của cải. Và 1 mặt khác, những người nông dân hoặc nông nô, là những người làm mọi công việc, đổi lại được ban phát quyền tồn tại tạm thời.
Tầng lớp thứ 3, giới tăng lữ, là 1 phần không thể thiếu trong cấu trúc quyền lực phong kiến. Trong suốt thời kỳ này, giáo hội hoạt động rất tốt. Giáo hội được hiến tặng đất đai, châu báu của cải và có thể duy trì được sự giàu có liên tục hơn những chúa đất trần tục, những người có đặc tính khác biệt và thường xuyên đi chinh chiến, cướp của những vị vua chúa khác. Giáo hội chưa bao giờ bị diệt vong, thậm chí còn giàu có hơn. Và Giáo hội còn mở ra sự phục hưng văn hóa mới trong năm 1000. Đây là kỉ nguyên được mô tả bởi 1 tu sĩ ở Burgundy, tên Raoul Glaber, ông không bàn luận nhiều về thời đại mình, cho biết “kết cấu của các Nhà Thờ đã được dựng lại và mọi quốc gia theo đạo Cơ đốc tranh chấp với nhau xem quốc gia nào sẽ cầu nguyện trong tòa nhà đẹp nhất”. Những Nhà Thờ mà Glaber nói đến đều xây dựng theo phong cách Rome. Phong cách Gothic chỉ được sáng tạo ra 1 thế kỷ sau đó, nhưng chúng không kém phần tráng lệ.
Trong khi công trình công cộng được xây dựng nhiều hơn, tư tưởng cộng đồng cũng đổi khác. Đúng hơn là, suy nghĩ của tầng lớp tăng lữ về những vấn đề chung, góp phần tạo ra 1 kiểu mẫu xã hội mới, thực tế hơn. Kiểu xã hội có vị vua đóng vai trò như 1 con người của hòa bình ở trung tâm xã hội, bảo vệ những người khác.
Mặc dù tu sĩ vẫn coi 1 người trị vì theo đạo Cơ đốc là quan trọng, bây giờ ông ấy là thành viên của xã hội Cơ đốc giáo rộng lớn hơn được phân chia thành 3 giai cấp xã hội. Mỗi giai cấp với 1 chức năng riêng biệt. Những người cầu nguyện. Những người chiến đấu. Những người lao động.
Trong khuôn mẫu xã hội này, những gì thuộc về tôn giáo được coi trọng hơn những gì trần tục, và cây kiếm đặt cao hơn cái mai. Một người cầu nguyện để cứu rỗi linh hồn. Những người khác chiến đấu để giữ mạng sống và của cải của cộng đồng. Và cả 2 xứng đáng được sống dựa trên sự lao động của những người khác. Vì thế dưới họ là những người nông dân làm việc để phục dịch họ.
Đó là 1 kiểu mẫu đơn giản. Chính sự cực kỳ đơn giản đó đã giữ cho nó vận hành suốt thời gian dài. Khuôn mẫu xã hội này còn đưa ra lý lẽ biện minh cho sự lười biếng bằng cách làm cho tỏ ra danh giá. Và nhìn nhận lao động chân tay như 1 điều đáng hỗ thẹn, đó là điều hiển nhiên, khi xã hội này bị áp đặt. Những người có khả năng thì chiến đấu hay cầu nguyện, những người không có khả năng thì lao động. Vậy nên, việc sản xuất ra của cải vật chất là 1 hoạt động tầm thường. Giới quí tộc và mục sư nhàn rỗi và không tham gia sản xuất.
Từng có 1 sự tranh luận, có 1 truyền thống Cơ đốc giáo đối lập. Chúa Jesu là 1 người thợ mộc. Những luật lệ tu viện, giống như qui luật của Thánh Benedict đòi hỏi lao động chân tay. Như câu ngạn ngữ Latinh “Lao động là cầu nguyện”. Lý do đáng xem xét nhất, tại sao luật lệ tu viện lại khuyên con người lao động. Đầu tiên là tránh tình trạng buồn chán, mà khi đó, tâm trí con người dễ lan man vào những chiều hướng nguy hiểm. Thứ hai, dạy cho con người tính khiêm nhường. Nguyên nhân xác đáng vì lao động là 1 trãi nghiệm về tính khiêm nhường. Đặc biệt, công việc là 1 sự khích lệ cho nỗ lực tinh thần. Trợ cấp cho các buổi cầu nguyện và những dự định để chúng có thể tiến hành mà không khó khăn về vật chất. Giới quý tộc không bao giờ quan tâm đến năng suất lao động. Đây là 1 ý niệm để lại ấn tượng lâu dài trong xã hội và văn hóa phương Tây. Hơn nữa kiểu xã hội có 3 tầng lớp có tăng lữ, quý tộc và dân thường đã được định hướng để thiết lập trật tự xã hội, nhưng thực tế lại tạo ra mâu thuẩn – sự thù ghét và chống đối đã xác nhận mối quan hệ quyền lực. Nhận biết sự mâu thuẩn, giáo hội cố gắng giảm mâu thuẩn bằng cách truyền bá tư tưởng rằng trật tự xã hội dựa trên sự hợp tác và giúp đỡ qua lại. Bức họa “Biểu tượng về 1 chính quyền mẫu mực” của Lorrentti TK 14 vẽ phản ánh ý niệm về sự hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau. Biểu tượng của sự công bằng, hòa bình, dũng cảm, khôn ngoan, chan hòa rộng lượng. Sự cao thượng, chừng mực và lòng nhân hậu. Tất cả dựa vào 1 tổ chức thống nhất những người ở giai cấp thấp. Bức tranh “Biểu tượng về 1 chính quyền bệ rạc”. Trong đó quỷ Satan ở vị trí trung tâm, và những người khác đang cãi cọ và vụ lợi cho bản thân. Một số người đang hợp tác và phục vụ nhiều hơn những người khác.
Trong khi Tây Âu không còn những bộ tộc dã man, dân chúng bắt đầu định cư, dù tương đối. Đầm lầy, rừng, đất bỏ hoang nhường chổ cho vườn nho, vườn cây ăn quả và những cánh đồng, những làng mới mọc lên để khai hoang và canh tác những vùng đất mới. Khối lựơng sản xuất tiếp tục tăng lên. Vì nó diễn ra ở 1 chế độ rất thạo vắt kiệt những gì có thể từ những người lao động ở dưới đáy xã hội. Hầu hết số thặng dư mới được chuyển vào kho những ông chủ và trên bàn ăn. Số thặng dư kích thích sự xa hoa, cho nên những nhóm chuyên gia được lập ra từ số đông nông dân mù mờ. Thợ nề, thợ thủ công, thương gia và sự phục hồi về nhu cầu dịch vụ này dẫn đến sự hồi sinh các thị trấn, nơi diễn ra trao đổi dịch vụ. Những trung tâm đô thị trước đó bị mất tầm quan trọng vốn có trong hàng thế kỷ. Nhưng ở TK 11 và 12, những thành phố cổ sống lại, thành phố buôn bán mới mọc lên nhanh chóng. Ở những giao lộ, những ngã tư sông, tại điểm dừng thuận lợi dọc theo đường chính.
Vào cuối TK 12, nền văn minh Tây phương đã 1 lần nữa thay đổi cơ bản. Nó đã là nông thôn 1000 năm. Kể từ đây bị lấn áp của các đô thị. Mọi thứ dần dần tập trung vào thị trấn. Sự giàu có, quyền lực và sự sáng tạo văn hóa. Thật tự nhiên, 1 sự biến đổi có ảnh hưởng sâu rộng đã tác động đến kiểu xã hội 3 giai cấp và những mối quan hệ xã hội mà nó cố gắng bình ổn. Trong mỗi giai cấp, sự tiến bộ về vật chất làm cho tôn ti xã hội trở nên phức tạp. Trong giáo hội, sự hồi sinh của đô thị đã nhấn mạnh sự đỗ vỡ giữa tu sĩ nông thôn và các tu viện. Mặt khác, tăng lữ đô thị trưởng thành xung quanh nhà thờ lớn của những thị trấn mới giữa tầng lớp quý tộc. nền kinh tế đô thị ngày càng trở nên quan trọng làm gia tăng quyền lực quý tộc nắm quyền chi phối thị trường gây bất lợi cho dân thôn quê.
Nhưng cuộc cách mạng vĩ đại nhất không diễn ra trong tầng lớp cao nhất, mà trong tầng lớp thứ 3 giữa những thường dân. Giai cấp thấp nhất đã tăng lên nhanh chóng về thành phần và đa dạng. Nông dân tiếp tục là đại biểu cho lực lượng đông đảo. Trên mặt bằng nông thôn, có nhiều điểm chưa ổn định, 1 số nông dân trở nên khá giả. Sự tương phản mạnh mẽ nhất là ở thị trấn: thợ thủ công, kẻ làm thuê, tiểu thương. Những thương nhân hoạt động phạm vi rộng lớn, có ông trùm trong giới thương nhân. Những tổ chức nghề nghiệp cũng phát triển. Phường và hội bảo vệ lợi ích của 1 địa phương hoặc 1 hình thức kinh doanh cụ thể. Hiệp hội thầy giáo và học sinh trong ngôi trường mới được thành lập. Những ngôi trường đầu tiên được thành lập ở Bologna và Paris. Tuy nhiên chúng nhanh chóng xuất hiện ở mọi thành phố lớn. Hoạt động do Hiến chương chi phối, được công nhận bởi đức Giáo hoàng hoặc Hoàng đế hoặc là vua. Từ “University” thời cổ để chỉ những hiệp hội độc lập.
Nhưng tất cả những sự thay đổi này (những đô thị mới, …) đã dẫn đến nhiều xung đột hơn. Điển hình của cuộc đấu tranh giữa tầng lớp cũ và những lực lượng mới là thỏa thuận được ký kết năm 1215 giữa hoàng đế John, Anh và các lãnh chúa của nước này. Một thỏa thuận được truyền đời, đến thế hệ chúng ta, Asmagna Carta, hay “Bản Đại Hiến chương”. Vào thời điểm John trở thành vua, chính quyền hoàng gia đã cải thiện nhưng tài chính là không. Vì thế, John đã đánh thuế tầng lớp quý tộc, tăng lữ và toàn dân thành phố. Ông đã xâm phạm đặc quyền của họ, bằng việc phái các quan chức triều đình đi thu thuế. Ông đã đẩy đất nước đến bờ vực nội chiến. Con đường duy nhất tránh xung đột là đi đến 1 thỏa thuận giải thích rõ ràng quyền lợi của “Những con người tự do”, đặc biệt là những lãnh chúa và tăng lữ, ngoài ra còn có thị dân và thương nhân. Sự công nhận những quyền lợi mới này rất đáng kể, mặc dù không có ai chấp hành nghiêm ngặt vào thời đó vì các thỏa thuận thời phong kiến luôn đổ vỡ. Nhưng ngoài những điều khoản của nó còn có những quyền lợi cơ bản, hợp pháp cho người Anh.
Ngoài ra còn có 1 thể chế đại diện gọi là Nghị viện được lập ra để bảo đảm nhà vua có tiếng nói riêng của mình, đồng thời không lạm dụng quyền hạn. Vì thế văn kiện có khuynh hướng đối lập thời phong kiến này nhằm bảo vệ lợi ích của những người vĩ đại trở thành nền tảng của những cơ quan tiến bộ hơn nữa. Thời gian này ở châu Âu, những hoạt động kinh tế ở mọi quy mô đều nới lỏng những ràng buột cũ kỹ, làm suy yếu những mối liên kết và lòng trung thành trong các phe phái thời phong kiến.
Cùng với sự phồn thịnh, châu Âu trở nên thích phiêu lưu hơn, quan tâm đến những tiến bộ về vật chất, tin tưởng thế giới tạo ra dành cho con người và con người có trách nhiệm thiêng liêng là làm chủ nó. Thời đại đã thắp lên 1 hy vọng mới cho thành công cá nhân và lan truyền những ý tưởng phi thường cho sự tiến bộ. Ý niệm rằng mọi thứ đang ngày càng trở nên tốt hơn, rằng hy vọng duy nhất của bạn sẽ không còn là đơn độc ở chốn thiên đường mà ở ngay trên thế giới trần tục. Bạn có thể hy vọng bản thân mình sẽ trở nên tốt hơn. Nếu bạn làm việc chăm chỉ, nếu bạn chiến đấu tốt. Nếu bạn táo bạo trong kinh doanh, hoặc có kỹ năng quản lý công việc. Một dấu hiệu tốt của tinh thần mới, châu Âu chuyển từ thế phòng thủ sang thế phản công. Nó dấn thân vào 1 loại phiêu lưu mang tính chất đế quốc chủ nghĩa, chính là tính chất của xã hội đang bùng nổ với sinh lực, sức sống và sự tự tin giữa TK 11 và 13, 8 cuộc viễn chinh diễn ra để giải cứu Jerusalem và những vùng đất thánh khỏi những người Thổ ngoại đạo. Cuộc hành hương vũ trang
Vào cuối TK 13, tất cả các pháo đài Thập Tự Chinh ở Syria và Palestine đã sụp đỗ, cuối cùng là TP Acre vào năm 1291. Chiếm lại đất Thánh từ tay kẻ ngoại đạo là nhân tố cốt yếu thôi thúc các cuộc Thập Tự Chinh, nhưng vẫn có các lợi ích khác. Quan trọng nhất là sự quyết tâm hạn chế chiến tranh và tình trạng bạo loạn ở châu Âu, bằng cách đưa họ ra nước ngoài. Nếu không khả thi, thì tinh thần hăng hái thời phong kiến có thể được dùng như những sự kết thúc hữu dụng bằng cách chỉ thị họ chống đối lại những người Cơ Đốc giáo ủng hộ dị giáo tại quê nhà. Tất cả những dị giáo đe dọa sự độc quyền hệ tư tưởng của Giáo hội vì thế cần loại bỏ. Những người Cơ Đốc giáo ủng hộ dị giáo đầu tiên bị thiêu trên cọc khoảng sau năm 1000.
Vào TK 13, Pháp phát động cuộc Thập Tự Chinh phát động chống lại người Albigensian hay Carthar. Những con người đức hạnh, sống vùng Albi, Tây Nam Pháp. Những người Albigensian đặc biệt là mối đe dọa nghiêm trọng người nắm quyền, vì họ nhận định rằng Chúa và quỹ Satan, cái thiện và cái ác, có quyền lực ngang nhau. Mọi thứ thuộc về vật chất, thế gới và vật chất nói chung được tạo ra bởi cái ác. Điều này bao gồm cả những cấu trúc chính trị, hệ thống phong kiến và cả Giáo hội. Bởi vì chính nó ngụy tạo bằng sự cứu rỗi linh hồn là hoàn toàn có thể trong thế giới này. Họ không thể được tha thứ. Những Thâp tự quân thời Trung cổ không thèm phân biệt họ giết những người châu Âu cũng đầy hăng hái như giết người ngoài châu Âu. Sau cuộc vây hãm 1 pháo đài của người Albigensian ở Beziers “Làm sao phân biết người Công giáo và dị giáo”, vị linh mục bảo hãy giết hết bọn chúng, Chúa sẽ nhận ra người của mình.
Nhưng hình thức Thập Tự Chinh phổ biến nhất là chiến đấu để cải đạo những kẻ ngoại đạo ngoại quốc, tốt nhất là đừng quá xa; nếu không cải đạo sẽ bị giết. Và đưa những con chiên ngoan đạo đến định cư trên vùng đất của họ. Cuộc tái chiếm Tây Ban Nha từ người Arab là 1 chiến dịch sinh lợi tiếp diễn mãi đến những năm 1490. Và những cuộc viễn chinh mà TBN và Bồ ĐN phái đến Bắc Phi và Châu Mỹ đều là hình thức Thập Tự Chinh tương tự. Nên truyền thống Thập Tự Chinh và kinh nghiệm xâm lược hợp thành 1, làm nên cảm hứng của họ. Những mục đích cao đẹp về tinh thần và không đòi hỏi về vật chất. Niềm khao khát rời xa gia đình và khao khát rời xa kẻ thù gây rắc rối, mạnh mẽ, táo bạo và hám danh.
Nhưng cùng lúc đó, con người cố khẳng định chính mình không bị ép buột bởi người lớn tuổi và kẻ bề trên và đặc biệt không bị ép buột bởi Giáo hội. Vào TK 12, văn hóa ngoại đạo xuất hiện, vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của Giáo hội, đôi khi còn phê phán nó và phản ảnh 1 cộng đồng của người dân thị thành muốn hưởng thụ sự giàu sang của họ. Ở Cologne, nơi mà sau này trở thành thành phố tầm cỡ của Đức, một nhà thơ thành thị viết: “Theo con đường hoan lạc ta vội vã ra đi, tiến thẳng tới hang ổ quỷ dữ. Ta làm những việc trái với luân thường đạo lý. Ta chẳng chút hy vọng với tới thiên đường, bị u mê bởi vì rằng Save the Skin’s my Motto”. Chắc hẳn có nhiều người cảm thấy giống như vậy và những người không ngại nói ra điều họ nghĩ. Điều này cho chúng ta biết về tinh thần đã thay đổi của thời đại. Còn có cả những trò mới trong ái tình có thể là không mấy nghiệm túc, gợi ra sự giải thoát khỏi đức tin tôn giáo của thời đại gò bó hơnm cả những thói quen quyền quý, tái phát hiện cách cư xử, sự can đảm, như phong cách Hiệp sĩ. Một điển hình, câu chuyện lãng mạn.
Vào khoảng 1200, tại Pháp, 1 người hát rong, nhà thơ ca sĩ sáng tác chuyện tình Aucassin và Nicolette. Aucassin, con trai 1 bá tước yêu và muốn lấy Nicolette, 1 nàng hầu nô lệ, không có địa vị xã hội, được mua về từ tay Ả rập.
Aucassin phải nên cưới người cùng địa vị, nếu Aucassin lấy Nicolette, thì phải xuống địa ngục. “Tôi lên thiên đường để làm gì, miễn là tôi có Nicolette, người tình ngọt ngào của tôi, người mà tôi rất đỗi yêu thương”. Những người muốn lên thiên đường: thầy tu già nua, người què cụt lớn tuổi, kẻ bệnh tật giày vò, kẻ nghèo hèn quần áo cũ rích, chết vì đói khát, lạnh lẽo, đau đớn. Địa ngục là điểm đến của các mục sư, hiệp sĩ quả cảm, lính dũng cảm, quý tộc; qúy bà xinh đẹp, tốt bụng; người hát rong, nhà thơ, các ông vua”. Ở đây sự đảo lộn tất cả các giá trị vốn được chấp nhận. Chưa kết hôn, Aucassin không chịu chiến đấu, đe dọa tài sản người bố và của chính cậu ta. Hai cha con thỏa thuận, Aucassin đi đánh trận và chiến thắng, cha cậu không giữ lời hứa. Không cho cậu gặp Nicolette. Vì thế thả kẻ cầm đầu. Cậu thỏa thuận với kẻ thù, hãm hại cha mình. Vì vậy, mọi giá trị truyền thống Thiên Chúa giáo, đạo làm con, chế độ phong kiến, đều bị giẫm đạp bởi tình yêu – kẻ điên rồ. Những cuộc phiêu lưu của các tình nhân trẻ vẫn tiếp tục và tiếp tục. Họ lạc mất nhau rồi tìm lại nhau, họ hôn nhau,cưới nhau sống hạnh phúc. Đoạn kết có hậu.
Nguồn : 52 tập phim Văn Minh Phương Tây
Hiệp Hội Bảo tàng Nghệ thuật Đô Thị.
GS Eugen Weber, Giảng viên môn Lịch sử, U.C.L.A., Los Angeles
Ngày đăng: 08/09/2024 - Cập nhật: 18/09/2024
Trường đại học văn hóa Trung Hoa là trường đại học tư nhân tọa lạc tại quận Sĩ Lâm, trung tâm thành phố Đài Loan, nơi có chợ đêm Sĩ Lâm nổi tiếng khắp thế giới.
Hiện nay, trường đại học văn hóa Trung Hoa là đang dẫn đầu về quy mô tại Đài Loan với số lượng sinh viên khổng lồ: khoảng 32.000 sinh viên, là trường đại học lớn nhất Đài Loan.
Trường Đại Học Văn Hóa Trung Hoa giúp bạn du học Đài Loan vừa học vừa làm thuận lợi. Đơn vị này có kinh nghiệm đào tạo lâu năm với nhiều thành tựu như:
– Thành lập năm 1962, ban đầu trường có tên là Viễn Đông (Far East), về sau được đổi tên thành Cao đẳng Văn hóa Trung Hoa.
– Năm 1980 được nâng cấp thành Đại học như ngày nay.
– Đây là trường đại học lớn nhất Đài Loan, với khoảng 32.000 sinh viên đang theo học, trong đó có khoảng 700 sinh viên nước ngoài.
– Top 20 trường đại học xuất sắc nhất Đài Loan (EduRank).
– Top 6% các trường đại học tốt nhất thế giới (EduRank).
– Những lý tưởng của văn hóa Trung Hoa và văn hóa Tây Phương, bao gồm cả hiện đại lẫn truyền thống được kết hợp thành những tinh hoa hàng đầu.
Được thành lập vào năm 1971, là một bảo tàng đại học, là bảo tàng đại học toàn diện đầu ở Đài Loan.
Bộ sưu tập vĩnh viễn của bảo tàng Hwa Kang bao gồm gốm sứ Trung Hoa từ nhiều thế kỷ, các tác phẩm hội họa và thư pháp, nghệ thuật dân gian và tranh khắc gỗ.
– Cựu sinh viên nổi bật tại CCU:
Hsu Tain-tsair, thị trưởng thành phố Đài Nam.
Lin Yu-chang, thị trưởng thành phố Cơ Long.
Pan Shih-wei, bộ trưởng Bộ Lao Động.
Iwan Nawi, Bộ trưởng Bộ văn hóa và dân tộc thiểu số.
– Âm nhạc truyền thống Trung Hoa.
– Thiết kế và quy hoạch đô thị.
Săn học bổng du học Châu Á không khó với United Ocean Education. Bạn có thể tham khảo thông tin sau của Trường Đại Học Văn Hóa Trung Hoa.
Oversea Chinese Students Scholarships
– Trị giá học bổng: 10.000 NTD/người (chỉ tiêu: chỉ 40 suất/học kỳ)
– Hệ đào tạo: Cử nhân và Thạc sĩ
– Hệ tuyển sinh: Đại học và Sau Đại học
Sau đại học: 2 năm (2 học kỳ/năm)
– Tốt nghiệp ĐH cùng nhóm ngành
– ĐTB trên 2.0 (thang điểm 4.0)
– Riêng MBA cần có kinh nghiệm làm việc tối thiểu 1 năm
Cử nhân: 35.000 NTD – 45.000 NTD/học kỳ
Thạc sĩ: 45.000 NTD – 50.000 NTD/học kỳ
Vì sao nên chọn UOE để du học Đài Loan
– Du học UOE là đơn vị duy nhất có đại diện tại Đài Loan, sẵn sàng giúp đỡ du học sinh từ khi tư vấn đến khi kết thúc khóa học, hỗ trợ giới thiệu việc làm sau khi tốt nghiệp và tìm chỗ ở.
– Đội ngũ giám đốc, tư vấn viên đều là những người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực du học, giáo dục, đã từng sinh sống và học tập tại Đài Loan.
Công Ty Liên hiệp Giáo Dục Đại Dương tự hào giúp bạn có hướng đi hay khi du học Đài. Hãy kết nối với chúng tôi để có thêm các thông tin hay về Trường Đại Học Văn Hóa Trung Hoa bạn nhé!
Nạn đói, bệnh tật và tuổi thọ trung bình ngắn đã định hình nên niềm tin thời Trung cổ.
Nơi Cái Chết Màu Đen ngự trị (dịch hạch thế kỷ 13) và quần chúng nhân dân đói khổ mơ về mơ về sự giàu có. Một thế giới non trẻ và hoảng loạn bị thống trị bởi những cảm xúc đột ngột và phi lý, sợ hãi thế lực phi nhiên và cũng hy vọng vào nó.
Sử viết về vương quốc và giám mục: Nếu mèo có thể viết lịch sử, lịch sử đó chắc hẳn phải là về loài mèo. Bây giờ, lịch sử con người được viết nên bởi những người biết đọc, biết viết vì vậy nói về những người biết đọc, biết viết và về nhân vật quan trọng với họ. Trong thời kỳ Trung cổ, khoảng giữa TK 6 và TK 14, thời kỳ mà giám mục hoặc hoàng tử hoặc bất cứ ai khác là người trả tiền, nắm giữ hoặc trừng phạt những người viết sử, thường là thư lại hay thầy tu. Vì vậy chúng ta biết nhiều hơn về nhóm người này hơn những dân thường. Một phần vì cá nhân họ quan trọng hơn và cũng vì 1 khi chúng ta rời khỏi lớp trên của xã hội, chúng ta sẽ tiến vào bóng tối.
Vua đứng vương quốc, quyền lực thuộc về “liên bang thân vương”: Trong chế độ phong kiến, hay nói đúng hơn là trong thời loạn lạc, vua là người quyền lực cao nhất, có ảnh hưởng ngày càng tăng và bộ máy cầm quyền ngày càng mở rộng. Sau thế kỷ 11 ở Anh, Catalonia và Castile và sau TK 12 ở Pháp, bộ máy hoàng tộc bắt đầu gây dựng, cơ cấu tòa án và hành chính của 1 nhà nước bền vững. Vua được xức dầu trong lễ đăng quang và mang 1 sức mạnh thiêng liêng. Ông là người duy nhất được các thần thánh đầy sức mạnh bảo hộ. Bản thân ông cũng giống như 1 vị thánh: một biểu tượng của sự sinh sản. Người bảo vệ của những người dân nhỏ bé, 1 người chữa lành mọi vết thương. Xã hội phong kiến cũng sáng tạo ra thuyết thần học với hình tượng của riêng nó. Với 1 vị thánh hoàng tộc, trị vì như 1 vị chúa tể, lên ngôi vua nhờ chiến thắng hay phán định. Dưới đó là quỷ Sa tăng, hình ảnh của những chư hầu bất trung, những kẻ nổi loạn, kẻ phản bội. Bài học chính trị đã rõ ràng: kể cả khi vua thỉnh thoảng có gặp khó khăn, cuối cùng ông chắc chắn sẽ thắng. Tương lai luôn ủng hộ nhà vua. Ông được phong là chủ nhân vương quốc, đôi khi rộng đến nỗi phải mất hàng tuần thậm chí hàng tháng để đi hết. Ông là người chủ duy nhất không kính sợ bất cứ ai trừ Chúa Trời. Tất cả các vị vua, những người có quyền tối thượng đối với đất nước mình, cũng phải trung thành với Chúa Trời. Và điều này có nghĩa ông ta có điều kiện tốt để mở rộng lãnh thổ. Khi dòng dõi vương triều của 1 nước nào đó bị đứt hoặc khi chư hầu không thực hiện được nhiệm vụ, ông ta là người bảo vệ của giáo sĩ; ông ta là người bảo vệ đám dân thường; ông ta có thể giúp họ chống lại các nhà quý tộc phiền phức; nếu điều đó có lợi cho ông ta. Hoặc ông ta có thể kích động các quý tộc chống lại nhau.
Ngoài ra cũng có Hoàng đế thừa kế danh hiệu lẫy lừng của La mã và ký ức đầy quyền năng của Charlemagne (tranh Lễ đăng quang của Charlemagne). Nhưng trên thực tế, Charlemagne chỉ vất vả duy trì được địa vị của mình ở 1 số vùng của Đức và Ý. Các hoàng thân và những kẻ ngày càng có quyền thế ở Pháp, Anh và Tây Ban Nha chẳng coi ông ra gì. Ý tưởng đế quốc duy trì quan niệm cũ về sự thống nhất hoàn toàn dưới 1 quyền lực tối cao. Đây là bữa tiệc dành cho Hoàng đế Charles IV do vua Pháp Charles V tổ chức. Nhưng thực tế là không thống nhất. Sự bất hòa gay gắt nhất ở trong lãnh thổ của Hoàng đế. Đức – 1 phần vương quốc của ông – đang đảo điên vì nội chiến. Danh xưng của ông đang nằm trong tay các thân vương – chính những người đã tôn ông lên làm vua và cũng có thể phế truất ông. Quyền lực của vua thực sự phụ thuộc vào tầm ảnh hưởng cả vương thất.
Hai quyền lực: Hoàng đế, trên thực tế là người đứng đầu 1 liên bang các thân vương Đức. Cho đến TK 14, điều này được phản ánh qua danh xưng mới của vương quốc mà ông cai trị: Đế chế La Mã Thần thánh của dân tộc Đức. Nhưng quốc gia Cơ đốc giáo thời Trung cổ giống quái vật bằng đá 2 đầu, có 1 vị quân vương thế tục và 1 giáo hoàng. Và bởi vì 2 đầu thường không tốt bằng 1 đầu, nên mỗi người đã cố gắng thiết lập ảnh hưởng riêng. Cứ như thế họ tất bật đấu đá nhau suốt mấy trăm năm.
Hoàng đế và các quân vương các thời đại khẳng định rằng lễ phong thánh trong nghi thức đăng quang của họ khiến chức vụ của họ mang tính chất thiêng liêng, tôn giáo. Và cho họ quyền cai trị cả thầy tu lẫn thường dân và họ có quyền bổ nhiệm giám mục và thu tiền của nhà thờ. Ngược lại, Giáo hoàng khẳng định rằng mảnh đất linh hồn lớn hơn và thống trị bất cứ thế lực chính trị thế tục nào. Tuyên truyền của phe Giáo hội so sánh Giáo hoàng với mặt trời, hoàng đế và vua chỉ là mặt trăng lệ thuộc vào mặt trời và chỉ phản xạ ánh sáng mặt trời.
Mặc dù vậy, cuối cùng vấn đề rất thực tế: Ai sẽ làm ông chủ? Giáo hoàng tranh cãi với vua về việc ai có quyền chỉ định Giám mục – 1 địa vị vừa quyền lực trong nhà thờ, vừa là quý tộc phong kiến với điền trang rộng lớn. Giáo hoàng cũng tranh cãi với vua Pháp về quyền đánh thuế giới tăng lữ. Cuộc đấu tranh lâu dài này giữa nhà thờ và nhà vua, cuối cùng cũng đến hồi kết khi mà vua Pháp Phillip Công bằng, quyết tâm ngăn chặn tham vọng của Giáo hội và giáng cấp Giáo hoàng Boniface VIII. Khi ông này cố gắng ngăn cản Phillip đánh thuế giới tăng lữ Pháp. Phillip đã phái quân tới bắt ông năm 1303. Không chịu nổi cảnh tù tội, Boniface chết chỉ vài tháng sau đó. Sau đó, những người kế vị của Boniface đã trốn tránh ở Avignon, 1 thành phố tráng lệ biên giới Pháp, mà Phillip không có quyền động tới. Đây là cung điện thuộc giáo hoàng tại Avignon, nơi các giáo hoàng ngự cho đến năm 1378, sau đó 1 vài vị vẫn ngự ở đây và miễn cưỡng trở thành kẻ dưới quyền các vị vua Pháp. Danh tiếng và ảnh hưởng của giáo hoàng được khôi phục lại sau đó, nhưng tham vọng bá quyền của họ hoàn toàn bị đập tan sau sự kiện “Babylonish cativity” như đã được miêu tả. Thầy tu giữ vai trò tôn giáo, nhưng quyền lực tối cao thế tục, từ bây giờ, đã nằm chắc trong tay của vua và các thân vương.
Tuy vậy, 1 điều rất quan trọng, sau những cuộc giằng co quyết liệt này, vượt qua sự tranh chấp quyền lực, nhà thờ và vua tiếp tục cộng tác trong suốt thời kỳ Trung cổ và sau đó. Những giáo dân và những người lính tiếp tục ủng hộ nhau chống lại đẳng cấp thứ 3, quần chúng lao khổ…Một ngàn năm trước đó, Chúa Jesu đã khuyên các môn đệ của mình rằng Caesar nên thu thuế giới tăng lữ và bây giờ đại diện của Chúa Jesu cần phải nhắc đi nhắc lại điều này để mọi người tuân theo luật pháp và nộp thuế và nhận thức được vị trí của họ. Những thầy tu ít khi quên nhắc nhở họ.
Tuy nhiên, bên ngoài nhà thờ, bên ngoài các cung điện, có 1 thứ khác, 1 thế giới căn bản hơn nhiều. Thứ nhất, phần lớn người dân thời Trung cổ, sống gần với tự nhiên, mà tự nhiên thì hoang dã. Tự nhiên là đất hoang, đồng hoang, bụi rậm; là đầm lầy nơi mà bạn có thể rơi xuống và chết; là rừng già, bao la và nguy hiểm đến đáng sợ; hồi đó vẫn còn nhiều sói, lợn lòi, bò rừng, đặc biệt là sói, chúng đi lang thang khắp nơi, từ cánh đồng đến thị trấn, thậm chí đến cả Paris vào TK 15. Săn bắn không phải là 1 môn thể thao, mà là sự tự vệ cần thiết, và tất nhiên cũng là nguồn cung cấp thịt thiết yếu. Mọi người vào rừng để thu hoa quả dại, thảo dược và mật ong như thời đồ đá. Nhưng hầu hết thức ăn của họ, kể cả tầng lớp thượng lưu là ngũ cốc, phụ thuộc vào những mùa vụ bấp bênh. Vì vậy cuộc sống được đánh dấu bằng những nạn đói, thủ phạm giết 10% dân số. “Ban cho chúng con bánh mì hàng ngày” là 1 lời cầu nguyện rất thực tế và khẩn thiết.
Một thế giới thiếu thốn thường xuyên và nguồn thực phẩm bấp bênh, khiến mọi người mơ về 1 cuộc sống no đủ ở mảnh đất thần thoại Cockaigne, nơi mọi người đều béo tốt. Nơi mọi ngôi nhà được xây bánh hoặc kẹo mạch nha và đường phố trãi đầy bánh ngọt, xúc xích và thịt quay từ trên trời rơi xuống. Trong nhiều thế kỷ, thức ăn là biểu tượng tiêu biểu của sự sang trọng. Trong khi người nghèo đói rách thì người giàu có và quyền lực ăn thường là thừa mứa. Một là họ đau dạ dày, đau gan hoặc bệnh gút; hai là thừa quá nhiều năng lượng, phải tập thể dục điên cuồng để tiêu hóa bữa ăn. Trái lại một số dân lao khổ đói rách bị ảo giác có lẽ do quá đói hoặc ngộ độc thức ăn hoặc quá mong mỏi 1 phép lạ giúp họ sống sót trong thế giới mà họ không thể đương đầu. Cả ông chủ của họ cũng không tránh khỏi nổi khổ này. Mặc dù giàu họ cũng không thoải mái. Rốt cuộc thì “Thoải mái” là 1 khái niệm vô cùng mơ hồ.
Và đêm tối và lạnh hơn, chúng ta hãy tưởng tượng, thời đó không có đèn, thiết bị sưởi ấm hiếm và không có hiệu quả, thậm chí ánh sáng cũng là thứ sang trọng, trong túp lều thứ duy nhất hoạt động là cánh cửa. Thậm chí trong những căn nhà và cung điện lối vào rất nhỏ vì lý do an ninh, cũng chịu chung cảnh ngộ. Chỉ những người giàu có nhất, mới có vài ô cửa kính. Vì vậy, những ngôi nhà thường lạnh lẽo, ẩm mốc, tối tăm và có mùi khó chịu. Mọi người giữ ấm bằng cách mặc thêm quần áo, đứng dồn lại với nhau chống lại cái lạnh, ẩm ướt và cái đói.
Một bài thơ trung cổ về người thợ cày (Pier Plowman) đã cho chúng ta cảm nhận về thực tế thời đó:
Ta sẽ thấy nghèo đói là bạn hàng xóm của mình;
Như tù nhân trong ngục tối, như kẻ bần hàn dưới mái lều
Phải nuôi đàn con và bị chúa đất bóc lột
Dệt sợi được đồng nào thì phải mang ra hết đóng tô thuế
Hoặc mua sữa, thức ăn để nấu cháo
Cho lũ trẻ đói ngấu quanh bàn ăn”
Bài thơ vào cuối TK 14, sau 1 đợt dịch bệnh lớn tàn phá miền Tây. Điều đáng nói là, nạn đói đó không nghiệt ngã, tồi tệ bằng ở TK 12 và 13 khi điều kiện kinh tế tốt hơn và ở nhiều vùng thuộc châu Âu dân số đã đông đúc không kém gì TK 18. Nhưng điều kiện vật chất cơ bản nhìn chung vẫn còn rất tồi. Nên không ngạc nhiên khi con người thời trung đại có xu hướng chết trẻ. Một nữa số trẻ em sinh ra sẽ chết trong năm đầu đời và nhiều phụ nữ chết trong khi sinh nở.
Ở TK 15, tuổi thọ của quý tộc nhiều nơi vào khoảng 21. Thực vậy, thời trẻ của nhiều nhân vật thời trung đại là 1 trong những điều khiến ta ngạc nhiên nhất về họ. Thanh niên trời đó, hành động rất bồng bột. Họ có thể đã là những chiến binh dày dạn, nhưng họ dễ rơi nước mắt, dễ bị kích động, rất dễ trầm uất, thường ngây thơ, tự đắc, nhiệt tình và cả tin. Và trên thực tế, hầu hết mọi người đều như vậy.
Bên cạnh an ninh lỏng lẻo là dịch bệnh xảy ra liên tục: đậu mùa, bệnh lỵ, bệnh đường hô hấp và cả sốt rét. Có cả bệnh ngoài da, tồi tệ nhất là bệnh hủi, hành hạ 5% dân số thế kỷ 12 và 13. Nguy hiểm hơn cả là những dịch bệnh chết người. Khủng khiếp nhất là vào những năm 1340 và 1370, dịch Cái Chết Đen đã giết 1/3 dân số miền Tây; ở nhiều thành phố, một nữa dân số bỏ mạng.
Bên cạnh những nỗi sợ này, là bạo lực liên miên khiến con người ta trở nên hung dữ, thô bạo và lo âu. Cuộc sống lúc nào cũng đầy trắc trở. Bây giờ, hiển nhiên là nếu con người không thoải mái, không khỏe mạnh hoặc ốm đau – giàu thì béo phì, nghèo thì đói lả – chắc chắn họ sẽ đi đến phát điên hoặc sụp đổ bất thần. Đó là tình cảnh chung của người Trung cổ.
Họ cũng có cảm nhận không bình thường về thế lực siêu nhiên làm cho thần kinh họ vốn đã căng thẳng càng thêm mệt rã rời. Mọi người dường như dễ dàng tin vào giấc mơ, điềm báo, bóng ma. Đặc biệt là giới tu sĩ ăn chay và diệt dục trở thành 1 phần của khung kỷ luật. Và quan niệm tập trung vào thế giới nội tâm và thế giới của thiên thần và ma quỷ. Không nhà phân tâm học nghiên cứu kỹ giấc mơ của họ với nhiều sự say mê tận tụy như các thầy tu thời trung cổ. Nhưng những giáo dân cũng có chung những giấc mơ và ảo mộng trong xã hội rất ngẫu hứng này. Nơi mà không có quy tắc ứng xử nào để ngăn cản ngất đi. Và ác quỷ và thánh thần liên tục can thiệp vào mọi thứ cuộc sống hàng ngày.
Phát minh Đồng hồ đo giờ: Vì vậy đây là 1 cuộc sống không chính xác và tùy tiện. Một xã hội bị thống trị bởi những cảm xúc đột nhiên và phi lý. Trong đó khi 1 người nói anh ta sẽ làm gì đó và sau đó anh ta mơ và nhận được điềm báo (hoặc anh ta chỉ bịa ra thế) rồi thay đổi ý định. Hoặc anh ta từ bỏ ý định đó, đó là điều dễ dàng và dễ được chấp nhận. Bởi vì 2 lý do, thứ nhất họ cho rằng các quyền năng thần bí không bắt tội bất kỳ 1 sự bào chữa nào. Thứ 2 bản thân thời gian cũng là khái niệm mơ hồ và không nhất quán. Trên thực tế, nếu bạn muốn xem xét sự khác nhau giữa thời kỳ Trung cổ và ngày nay chỉ cần tưởng tượng 1 thế giới mà gần như không có cái đồng hồ nào.
Với nhiều người đo đếm thời gian quan trọng trên thế giới đến nỗi việc sống không có đồng hồ là không thể và không thích ứng được. Thời Trung cổ có đồng hồ cát, cái này đo được nữa giờ một – nhưng thực ra chúng chạy không chính xác lắm. Có cả đồng hồ mặt trời, nhưng không phải lúc nào cũng có nắng. Hầu hết mọi người đều như nông dân, mong chờ phép màu từ Giám mục. Bởi vì con gà trống trong làng đã dừng gáy, họ không còn cách nào khác để biết thời gian. Còn việc tính thời gian lớn hơn giờ, như năm và ngày, thậm chí vì những sự kiện trọng đại như sinh nhật của 1 quý tộc giàu có hoặc như hiến chương hoặc hiệp ước, cũng lẫn lộn hoàn toàn.
Theo các tài liệu Tôn giáo, năm bắt đầu vào Giáng sinh, ở Venice đó là ngày 1 tháng 3, Florence là 25/3, ở Pháp là ngày lễ Phục sinh. Đó chắc chắn là lý do cho cuộc điều tra quy mô lớn năm 1284 để tính tuổi nữ bá tước Champagne, người thừa kế 1 trong những gia tài vĩ đại nhất mọi thời đại (vào thời đó). Sau đó, tuy vậy một trong những bước tiến trí tuệ vĩ đại của lịch sử đã xảy ra. Lịch đã ra đời, ngày được chia thành các phần bằng nhau gọi là giờ. Các công cụ đo thời gian có các vạch để theo dõi tất cả các giờ.
Số liệu xây dựng, dân số, … chưa chính xác: Vào TK 14, đồng hồ cơ học quả lắc xuất hiện và tăng cường thêm các con số. Năm 1354, 1 con gà cất tiếng gáy và vỗ cánh trên chiếc đồng hồ vĩ đại ở Strabourg. Vì vậy từ đó, xuất hiện 1 thứ thời gian của con người, của lý trí, của dân thành thị, sinh ra ở thị trấn giống Rouen, dưới sự ảnh hưởng của các thương nhân, những người biết giá trị của thời gian. Bởi vì họ phải tính toán, lên kế hoạch chuyến đi, tính lợi nhuận. Tuy vậy, thứ tính thời gian này vẫn rất hiếm, vì ít người biết đến và sử dụng thành thạo số má. Tính toán các thứ là điều thần kỳ dành riêng cho các chuyên gia. Và rất nhiều người vẫn sử dụng cách tính giờ khác, tùy theo từng vùng. Thậm chí những người trí thức, bạn sẽ không muốn biết những số liệu của họ. Rất ít kiến trúc sư và kỹ sư chính xác tuyệt đối về tính toán của mình. Có nghĩa là rất nhiều công trình, tồn tại xiêu vẹo hoặc sụp đổ giống như tu viện TK 13 này. Và có nghĩa là ngân sách, thuế và kế hoạch tài chính toàn dựa trên các thông tin sai và bịa đặt.
Ngày nay cũng vậy, nhưng nó ở mức độ như TK 14 tại Anh nơi hội đồng Hoàng gia triển khai thu thuế giáo dân. Hội đồng ước tính có 45.000 giáo dân trong vương quốc. Trong khi chỉ việc xem danh sách đăng ký là biết chỉ có 8.600 dôi lên 5 lần so với thực tế. Lúc bấy giờ, tại thời Trung cổ, số má chỉ mang tính cách tượng trưng khi nói về binh lính 100.000 hay 200.000 người. Hoặc khi nói về 10.000 người bị chết trong trận đấu trong khi quân đội hiếm khi nhiều hơn 15.000 hoặc nhiều lắm là 20.000. Số thường được sử dụng khi các công chức thành phố những người quen với sổ sách thống kê phức tạp. Muốn khẳng định dân số của 1 thành phố là vài trăm nghìn trong khi thực tế chỉ khoảng 30.000 hoặc 40.000. Trên thực tế, ý niệm về sự chính xác, với việc tôn trọng các con số là rất xa lạ trong thế giới Trung cổ, một thế giới cũng chỉ vừa mới hình thành.
Vì trong thế giới này không có sự chính xác và cách tốt nhất để sống sót là sống ngày nào biết ngày đó. Đồng thời, đây cũng là 1 thế giới rất nghiệt ngã và giới hạn. Nhưng những tư tưởng giới hạn và vụng về của nó lại sáng tạo ra hàng loạt tuyệt tác nghệ thuật. Những tuyệt tác đã biến đây thành thời kỳ hưng thịnh lâu dài nhất khoảng 300 năm từ TK 12 đến TK 14.
II . Thành Thị và Nhà Thờ Lớn thời Trung Cổ (Cities and Cathedrals of the Middle Ages).
Những Thánh đường tôn giáo đồ sộ, tráng lệ. Làm Tốn nhiều tài nguyên. Hệ thống Thương mại, Công nghiệp châu Âu hình thành và phát triển. Mở đầu cho châu Âu và Đóng góp rất nhiều cho thương mại thế giới
Các nhà thờ vĩ đại biểu tượng cho tham vọng về vật chất và tinh thần thời kỳ này.
Các nhà thờ trên quy mô vô cùng hoành tráng. Những tòa tháp trên cảnh quan thời trung cổ. Cơ hội mới, thị trường mới. Khi các trung tâm thành thị châu Âu nắm lại vị trí quan trọng bị mất đi từ hàng ngàn năm nay. Chúng thách thức chính các triều đại phong kiến thống trị nó. “Thành phố và các nhà thờ”
Tập trước chúng ta chỉ mới nói đến những sai lầm (hạn chế, khó khăn, trì trệ,…) trong thời Trung cổ, ít nhất là đối với tầng lớp trung lưu châu Âu (vua và nhà thờ lo giành quyền lực, sản xuất kém, kỹ thuật chưa phát triển, dân nghèo đói, ăn uống dư thừa, bệnh tật, mê tín…). Đó là khi sự sợ hãi và lo lắng lên đến đỉnh điểm. Cái chết đau đớn ở mức độ cùng cực. Nạn đói và bệnh tật đã trở thành bệnh dịch, mê tín lan tràn khắp nơi. Tuy nhiên, sự thật nghiệt ngã này không làm lu mờ đi sự trỗi dậy của nghệ thuật. Chính hoàn cảnh khắc nghiệt, chính những đầu óc vụng về đã làm nên sự sáng tạo. Mà vẫn còn truyền cảm hứng cho chúng ta đến tận những thế kỷ sau này.
Nghệ thuật Trung cổ – Nhà Thờ đồ sộ ở TK 11 – 14: Khi nói về nghệ thuật Trung cổ, chúng ta thường liên tưởng đến các nhà thờ, vì nền văn hóa thời Trung cổ in đậm ở những lâu đài tôn giáo này. Nơi mà chúng đã thể hiện những khát vọng về vật chất thiết yếu nhất cũng như những thôi thúc nhất về tinh thần. Trong 3 thế kỷ từ 1050 đến 1350, chỉ riêng nước Pháp đã khai thác tới hàng triệu tấn đá để xây dựng 80 thánh đường, 500 nhà thờ, hàng chục nghìn nhà thờ xứ đạo. Người Pháp khai thác và vận chuyển nhiều đá trong 3 thế kỷ này, hơn cả người Ai Cập trong suốt thời đại của mình. Ngay cả kim tự tháp lớn nhất cũng chỉ tốn 2,5 triệu m3 đá.
Việc xây dựng các nhà thờ lớn sâu tới 40 – 50 feet trong lòng đất, tương đương với độ sâu của 1 nhà ga tàu điện ngầm. Trong những trường hợp này đã phải dùng đến 1 lượng đá lớn bằng lượng đá xây kim tự tháp. Cho đến năm 1400, dồn nhiều tiền của, đã có 1 nhà thờ cho mỗi 200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em ở Christendom. Diện tích cho mỗi công trình tôn giáo này, chiếm 1 phần lớn diện tích thành phố. Nhà thờ Norwich. Ở những nơi như Norwich, Lincol, York, nơi có 20.000 dân sinh sống (thị trấn) có 140 nhà thờ. Tuy vậy, đây có thể không chính xác vì có thể vì 1 số nhà thờ lớn khác đã bị phá hủy. 1 hoặc 2 nhà thờ lân cận và cả những tòa nhà mới làm nơi ăn ở tạm thời cho những người đã mất nhà cửa, thay vì xây dựng các nhà thương điên. Mặc dù vậy, các nhà thờ tại Amiens, chiếm 1 diện tích 8500 yards để phục vụ khoảng 10.000 người cùng tham gia.
Chúng tôi đã làm 1 cuộc so sánh, hãy tửơng tượng 1 thành phố hiện đại có 1 sân vận động trung tâm, có sức chứa 1 triệu người. Cũng vĩ đại như vậy, là chiều cao của bức tường, tòa tháp và những đường xoắn ốc. Đó là nhà thờ ở Beauvais, Pháp, bạn có thể xây 1 tòa nhà 14 tầng, bên trong chổ ngồi của đội hợp xướng nhà thờ, mà không tính nóc, tòa nhà đó sẽ có chiều cao 175 foot = 53,34 m. Vào TK 12, những người đàn ông trong tu viện dòng thánh Bruno đã định xây dựng 1 tòa tháp hình chóp cao 105 m. Lạy Chúa, may mà chưa ai xây 1 tòa nhà 30 tầng ở đó để so sánh với nó. Và không ai xây dựng 1 tòa nhà 40 tầng ở Strasbourg để so sánh với tòa tháp nhà thờ cao 466 feet, 142 m. Đây là 1 dạng tự biểu hiện sức mạnh thể hiện sự chi phối cuộc sống ở những thành phố đông đúc, nơi có những tòa nhà cao vượt trội bên cạnh những tòa nhà thấp lùn. Những tòa nhà có thể nhìn thấy xa từ hàng dặm. Vì thế cho đến tận ngày nay, bạn có thể thấy tòa tháp của nhà thờ, khi còn cách ½ giờ lái xe cách Chartres.
Động lực xây dựng Thánh đường: Rõ ràng là tinh thần mà đã lên kế hoạch và xây dựng những công trình táo bạo này không phải tầm thường. Nó được kích thích từ 1 đức tin tôn giáo cũng như sự sùng bái tôn giáo đến kinh sợ. Chính điều này đã dẫn đến việc xây dựng các ngôi đền cho vị Thượng đế Cơ đốc giáo tráng lệ hơn cả thiên đường. Kiểu kiến trúc và tỉ lệ có thể bị ảnh hưởng bởi kiến trúc ở Syria, Tây Ban Nha hay Arab theo những nhà buôn, những người hành hương du nhập vào. Nhưng nó cũng được truyền cảm hứng bởi lòng yêu nước và kiêu hãnh mãnh liệt. Và bởi 1 cảm xúc mới: tính ganh đua. Tất cả các tu viện và cộng đồng cũng như thành phố muốn 1 nhà thờ to, đẹp hơn bất cứ của ai khác. Đó là dấu hiệu rất rõ ràng của lòng mộ đạo cũng như của cải và thành công của họ và của tất cả những người có đủ tiền trả cho kiến trúc sư và thợ nề làm những tòa nhà cho đế chế Cơ đốc giáo.
Ngày lại ngày, những tòa tháp và những bức tường này cứ chọc thẳng lên trời, tới đấng Chúa Trời tối cao và tới cả sự ghen tỵ của người hàng xóm thành bên. Ngày lại ngày, chúng sập xuống chỉ để được xây dựng lại. Thành phố tiếp nối thành phố, tu viện tiếp nối tu viện. Vào năm 1163, nhà thờ Đức Bà Paris có mái của gian giữa cao nhất với 103 feet- 31,4 m. Vào 1194, Chartres mái vòm cao 108 feet- 36,8 m. Vào 1212, Rheims 113 feet, 34,4 m. Chín năm sau (1221) Amiens đạt kỷ lục 128 feet- 39,1 m. Cuối cùng 1225, Beauvais cao nhất 157 foot, 47,7m. Vậy mà sau đó ½ TK tất cả đều sụp đổ. Thật may mắn, từ đó kiểu kiến trúc ấy cũng chết theo. Nhưng hãy nghĩ xem trước khi tòa tháp Pisa trở thành 1 điểm du lịch những người thợ xây đã cảm thấy thế nào, khi nó bị nghiêng. Hãy nghĩ đến những thủ đô mà lực lượng lao động và nguồn tài nguyên cùng tạo nên những công trình kiến trúc này. Các học giả đã tranh luận rằng các thành phố rất có triển vọng như Beauvais vào TK 13, sau này đã bị suy sụp 1 phần bất chấp những cố gắng nỗ lực to lớn của người dân (do xây dựng tốn kém). Trong khi những thành phố giàu có của Ý xây dựng những nhà thờ khiêm tốn hơn những thành phố ở phía Bắc. Họ cũng đầu tư của cải 1 cách có lợi nhuận hơn.
Vì thế đây cũng là 1 đặc điểm khác của thời Trung cổ. Sự ăn chơi sa đọa và cạnh tranh lẫn nhau giữa các tổ chức này đã khiến chúng ta nhớ tới nước Mỹ TK 19 khi tự tin và khao khát được thể hiện mình đã khiến cho nhiều thứ bị phá hỏng và xây dựng những thứ khác.
Truyền tải Văn hóa: Cùng thời gian đó, những sáng tạo này được coi như 1 công cụ ngôn ngữ, 1 hình thức thể hiện đối với những loại cảm giác tôn giáo tối cao nhất thuộc về niềm tự hào của dân chúng, của sức sáng tạo cá nhân trong 1 khu vực khi mà người châu Âu từ trước đến nay vẫn rất im tiếng. Bạn có thể nhìn thấy tất cả những điều đó trong 1 sự trang nhã đáng ngạc nhiên và những vòm cong của mái vòm cũng với những cột trong những bức tranh biếm họa kệch cỡm trang trí các căn phòng và đầu cột trong những công trình điêu khắc và các bức tranh tường ấn tượng minh họa cho các câu chuyện quen thuộc trong Kinh Thánh. Ví dụ như những chuyến bay đến Ai Cập hoặc sự cám dỗ của Eva,… Và trong sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi và tính trần tục bạn có thể tìm thấy trong các quảng cáo ngây ngô trong các ô cửa kính màu mà các phường hội buôn bán tài trợ. Chúng ta thậm chí có thể nhìn thấy nghệ thuật Trung cổ như những nơi chứa đựng các giá trị nào đó. Cái mà có lẽ những thứ khác không thể diễn tả nỗi. Nhưng ở những nơi có đặc quyền này sự hài hòa, cân bằng rõ ràng là thiếu vắng trong thời gian này thỉnh thoảng vẫn có thể được tìm thấy trong các kiến trúc Rome.
Ví dụ sự chính xác sự rõ ràng của luật pháp cũng như văn bản đều không dám bôi nhọ trong thời Trung cổ vẫn được bắt gặp trong công việc của những người thợ xây tài ba trên các mái vòm, các tòa lâu đài, hầm mộ La Mã. Sự cao thượng, sự duyên dáng, sự thanh khiết thường thiếu đi trong cuộc sống đời thường của 1 kỷ nguyên Cơ đốc tàn bạo được thể ra trên các tòa tháp nhọn chọc trời của các nhà thờ kiến trúc Gotic TK 12 và 13. Khi các mái vòm Gotic có thể được xây dựng bằng kiểu kiến trúc chịu lực và có tính cân bằng.
Tuy vậy, cái cách mà nhà thờ được dựng lên không quan trọng bằng việc nó được xây dựng ở đâu: trong thành phố. Sự phục hưng của cuộc sống thành phố chính là thời Trung cổ – 1 thời kỳ có đóng góp lớn cho sự phát triển văn minh nhân loại. Khi nhìn vào khung cảnh thành phố thời Trung cổ, bạn có thể thấy các nhà thờ đồng thời cũng có các kiểu kiến trúc khác đang mọc lên để cạnh tranh với nó: những tòa tháp do phái quý tộc xây lên để giữ gìn các thái ấp của hệ tư tưởng cũ như giữa dòng họ Montagues và Capulet trong vở kịch.
Sự xuất hiện các Tòa tháp: Tòa tháp mà biến rất nhiều nơi thành 1 thành phố Manhattan thu nhỏ. Một cách đáng kể, hầu hết những tòa tháp này giờ đây đã biến mất. Ở Florence, nơi có 400 tòa tháp, giờ đây chỉ còn vài viên gạch. Bologna có 200 tòa giờ còn 2 tòa. Và các khách du lịch vẫn lái xe tới Gimignano 1 TP nhỏ với 4.000 người trên những quả đồi vùng Siena nhìn ngắm những tòa tháp ở đó. Giờ chỉ còn 13 tòa, trước đây là 70. Tòa tháp lớn nhất ở Siena là tòa thị chính. Và điều này hoàn toàn hợp lý vì đó là những tòa thị chính và sự trao đổi thương mại với châu Âu, cái đã thay thế tầm quan trọng của nhà thờ bằng 1 xã hội hiện đại mà sau này chính nó đã chiến thắng chế độ phong kiến.
Thương mại phát triển: (do nhu cầu cuộc sống) Nếu chiến tranh thứ nhất không nổ ra, có thể shop quần áo lớn ở Ypres thuộc Bỉ dài 433 feet, lớn hơn và lộng lẫy hơn hầu hết các nhà thờ. Cửa hàng này xây dựng vào 1200 bởi Bá tước vùng Flander. Tất cả điều này nói 2 điều. Thứ nhất 1 vài ông chủ biết được họ hứng thú trong việc gì. Thứ 2 là lợi ích lớn nhất từ bây giờ sẽ không phải có được từ trộm cắp và bạo lực mà còn được nhiều hơn nữa từ thương mại, đặc biệt là từ ngành dệt. Nhờ đó mà nhiều thành phố đã trở nên thịnh vượng như ở Anh, Flanders, Ý và Pháp. Thương mại thời Trung cổ nghĩa là trao đổi, trao đổi sản phẩm hoặc hàng hóa lấy 1 thứ khác, nó cũng có liên quan rất nhiều đến du lịch.
Mạng lưới thương mại châu Âu (đi từ Anh, bắc Âu đến Ý, băng qua Pháp): Trong TK 12 và 13, các hội chợ Champangne ở bắc Pháp trở thành những trung tâm trao đổi thương mại chính ở châu Âu, bởi vì các bá tước Champangne rất thông minh khi nâng cấp đường xá, xây dựng các khu chợ, lập ra các tòa án đặc biệt để thúc ép các vụ mua bán và các hợp đồng được thực hiện tại chợ và giữ ổn định trật tự cho đến khi phiên chợ kết thúc. Cứ 1 hoặc 2 tuần một lần, 6 lần 1 năm. Có rất nhiều thứ để vận chuyển và trao đổi, từ rượu cho đến nô lệ, từ gia vị đến các loại cá trích muối của vùng biển Baltic và biển bắc Hà Lan, đã tạo nên sự sầm uất ở đây. Ví dụ như ngô và gỗ xây dựng được thả xuống bờ sông Vistula, trên đường đến Anh hoặc tới các nước nằm ở khu vực thấp hơn, đã được vận chuyển bằng xà lan hay tàu biển. Ở Lubeck nó đã được bỏ xuống để vận chuyển ngang qua đất liền để đi đến Hamburg ở Elbe (tránh vòng qua bán đảo Đan mạch), rồi tiếp tục lên tàu đến những vùng xa xôi. Nhưng những trung tâm lớn nhất đã phát triển ở 2 chặng cuối của tuyến đường thương mại ở châu Âu ở vùng Flanders, xung quanh Ghent và Bruges, nơi các loại len nước Anh được đưa đến các châu lục khác bằng tàu buôn và lại quay về với vải vóc, và ở Ý, trung tâm thương mại Địa Trung Hải.
Quy mô thương mại: Khi chúng ta nói đến sự cạnh tranh thương mại giữa các thành phố, chúng ta không thể theo 1 tỉ lệ theo tiêu chuẩn hiện đại, tất cả mọi thứ phải được giữ ở 1 tỉ lệ nhỏ. Đã không có 1 thành phố châu Âu nào buôn bán với Constantinople. Cho đến TK18, Bruges có dân số 35.000 người. Milan và Venice, 2 TP lớn thứ 2 châu Âu có dân số gấp 4 – 5 lần. Florence, đáng lẽ đạt đỉnh 100.000 dân, trước khi ½ dân số chết vì dịch hạch. Vào TK 14, khi mà Florence sản xuất 80.000 quần áo 1 năm ít hơn rất nhiều so với doanh thu của 1 nhà xưởng ở Manchester vào 1850.
Khám phá thế giới và Thập Tự Chinh tăng thương mại: Vào TK 15, tất cả các lò rèn ở Styria, Áo, mà sau đó trở thành trung tâm luyện sắt của châu Âu, sản xuất được 2000 tấn/ năm. Ngày nay 1 nhà máy luyện thép có thể sản xuất ra nhiều hơn thế. Ngân hàng lớn Florence, với các chi nhánh khắp châu Âu có đội ngũ nhân viên khoảng 50 đến 100 người. Và tàu buôn thời đó chỉ là những chiếc thuyền đơn sơ. Vào 1492, các thuyền buồm nhỏ của Colombo đã được ráp với nhau có sức chứa 520 tấn, nhưng vẫn nhỏ hơn trăm lần kích cỡ chiếc tàu của Nữ hoàng Elisabeth II. Tuy vậy hoạt động của những chiếc tàu này đều trên quy mô khá mới và nhộn nhịp. Những người thực hiện những hoạt động này đều là những lớp người mới với những chân trời và tham vọng mới, đã gợi lại những ngày xa xưa. Mục tiêu của họ đã lớn dần lên bởi cuộc Thập tự chinh, điều mở ra cơ hội mới và thị trường mới đã đem lại tiền bạc mà đã đảo ngược dòng tiền đã từng chạy từ Tây sang Đông nhưng giờ thì chạy ngược lại tới châu Âu. Và những cuộc viễn chinh cũng đã khiến họ trở nên cao quý, thị hiếu sành điệu và khả năng tiêu thụ hàng hóa cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thương mại. Các nhà buôn và các thành phố cũng được lợi từ các cuộc đấu tranh giữa các giáo hoàng và các hoàng đế điều đã khiến hầu hết các TP thoát khỏi sự kiểm soát của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là các nhà buôn không thích thú nhiều lắm đến chính trị của triều đại phong kiến. Họ chỉ muốn hòa bình và ổn định hơn chiến tranh và sự hỗn loạn. Bởi vì hòa bình và ổn định tốt cho thương mại. Điều họ quan tâm là 1 trong số họ đã nói trong thư – chính là Chúa Trời và lợi nhuận. Mặc dù tôi không thể không nghi ngờ rằng lợi nhuận có thể đến trước. Nhưng đã có những sự hứng thú trước các cuộc phiêu lưu, các doanh nghiệp và sự cạnh tranh, đã kích thích các cuộc chiến tranh. Các nhà buôn Genoa TK 13 giống như Benedetto Zaccaria. Ông sở hữu các xưởng nhuộm ở Genoa, nhà máy phèn ở Tiểu Á và các đồn điền ở các đảo Hi Lạp và Chios. Ông ta cũng giám sát các cảng và những nơi trao đổi thương mại ở Imea, Syria và nam Tây Ban Nha. Ông ta cũng buôn bán gia vị và dao kéo. Từ khi đĩa xuất hiện vào cuối thời Trung cổ và sau đó trở thành 1 món đồ rất tinh xảo. Zaccaria cũng buôn bán vải vóc, lông thú, muối, ngũ cốc và bồ tạt.
Phát triển phương thức thương mại mới: Chính những người đàn ông như Benedetto Zaccaria đã phát triển phương thức thương mại mới: kỹ năng tăng cường vốn tư bản và di chuyển vốn; trao đổi bằng hóa đơn, hối phiếu; trực tiếp trả 1 số tiền cụ thể cho 1 người nào đó và cái có thể được dùng để trao đổi với người thứ 3, 4, 5. Và có những nơi được gọi là nơi giao dịch mà việc trao đổi hàng hóa được thực hiện trên những tờ giấy mà chẳng cần phải nhìn; Và việc đặt chổ 1 lúc được 2 lần để theo dõi hoạt động mua bán; và những hiệp hội mới được gọi là công ty; ở đó bạn có thể mua cổ phiếu để tăng sự mạo hiểm; và bảo hiểm để phòng tránh những rủi ro. Vì luôn luôn có những rủi ro và thường là các vấn đề cá nhân cũng như các vấn đề tài chính, đặc biệt là từ các nhà buôn mà thường đi lại buôn bán 1 mình, từ nơi xa lạ này đến nơi xa lạ khác. Trong thế giới Trung cổ, “nơi xa lạ” là nơi cách nhà 5 – 10 dặm.
Khó khăn, bản lĩnh của nhà buôn: Đây là lời khuyên, mà 1 nhà buôn người Nauy dành cho con mình: “Người nào muốn trở thành nhà buôn phải trãi qua rất nhiều nguy hiểm, có khi ở đất liền, cũng có khi ở ngoài đảo xa xôi”. Nhưng gần như giữa những người xa lạ này và phải là những mục đích liên tục, phải hành động 1 cách thận trọng bất luận điều gì đó xảy ra. Nếu bạn đến 1 nơi mà nhà vua hoặc vị tướng nào đó dùng uy quyền để uy hiếp bạn và nếu họ muốn bất kì loại phí nào nhân danh người thống trị thì ngay lập tức phải giao nộp cho họ; nếu cố gắng giữ chặt nhất những cái nhỏ nhất thì có thể mất những cái lớn hơn. Dù trả 1 cái giá tốt cho hàng hóa của bạn, mặc dù không quá cao. Và tuy là rất gần cái mà bạn nhìn thấy và bạn chiếm giữ, thì bạn cũng không bị gọi là kẻ xảo trá.
Vai trò thương mại: Vì thế bây giờ trong khi những nhà buôn đang giúp đỡ để thay đổi cấu trúc nền kinh tế châu Âu, họ bắt đầu thay đổi cấu trúc xã hội. Ví dụ từ “công ty” đến từ việc ghép những cái bánh mì lại với nhau có nghĩa chung chỉ dòng dõi quý tộc. Alexander có những người bạn đồng hành, cả Charlemagne cũng vậy. Khi thế giới chính thức trở thành thế giới thương mại, nó làm nảy ra trong ý chí người đàn ông tham vọng về sự quyền quý và 1 vài trong số họ giống như những ông hoàng và có quyền lực lớn giống như Jacques Coeur, người từng là chuyên gia tài chính và là cố vấn của vua nước Pháp vào những năm 1400. Lâu đài ông ta nằm ở Bourges vẫn là tòa nhà kiểu Gothic vẫn còn được bảo quản đến ngày nay.
Đã có những người phát minh ra những ngân hàng hiện đại được đặt tên Thebanchi, nghĩa là cái ghế dài mà những nhà buôn và những người trao đổi tiền tệ sử dụng ở chợ giống như Benedetto Zaccaria hay Jacques Coeur – những ông chủ ngân hàng tiến hành các vụ giao dịch. Ở những nơi sang trọng cũng như những nơi thấp kém nhất trên 1 nguyên tắc chung mà sự đa dạng của việc đầu tư đã gây nên nguy cơ. Họ sớm tiến xa hơn nữa để giúp đỡ các cuộc vận động lớn để cho vua vay tiền – và cuối cùng bị phá sản khi những khoản vay này không được trả – để tiếp quản tài chính của Đức Giáo hoàng. Và cuối cùng từ việc tài trợ tiền bạc cho Giáo hoàng và các vị vua đến việc tạo ra (quyền lực) họ. Gia đình Medici ở Florence, có tới 4 người làm giáo hoàng và 2 hoàng hậu Pháp, chỉ riêng trong TK 16.
Nhưng các gia đình và các thành viên đã tăng lên trên thế giới trong tất cả mọi kiểu xã hội trong mọi kiểu thời đại. Quan trọng hơn là những ý niệm mà họ đã thêu dệt nên trong việc đầu tư, và trong 1 thứ gì đó khác hơn là sự cứu rỗi linh hồn và kiếp sau của các doanh nghiệp và thứ gì đó hơn là trộm cắp và bạo lực; có tầm quan trọng là khả năng viết, đọc cũng như tính chính xác; rất đơn giản, cái chúng ta có khuynh hướng làm mất uy tín chính là “giá trị của giai cấp tư sản” – tính chăm chỉ, tình tằn tiện, tính trung thành, tính trách nhiệm. Tất cả những điều đó có thể chán ngắt, nhưng đều là 1 phát triển to lớn trên tất cả, những cuộc đổ máu do tình trạng vô chính phủ gây ra trước đó. (Sân chơi tìm Lợi nhuận từ buôn bán hơn là chiến tranh giành giựt tài sản, đất đai, … trước đây)
Nguồn : 52 tập phim Văn Minh Phương Tây
Hiệp Hội Bảo tàng Nghệ thuật Đô Thị.
GS Eugen Weber, Giảng viên môn Lịch sử, U.C.L.A., Los Angeles