Ngày nay Quạt cắt gió là thiết bị không thể thiếu ở các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị, nhà xưởng… Quạt được lắp ở nhiều vị trí và không gian khác nhau. Đặc biệt quạt chắn gió được lắp ở trước cửa ra vào. Khi sử dụng [...]
Ngày nay Quạt cắt gió là thiết bị không thể thiếu ở các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị, nhà xưởng… Quạt được lắp ở nhiều vị trí và không gian khác nhau. Đặc biệt quạt chắn gió được lắp ở trước cửa ra vào. Khi sử dụng [...]
Màu sắc được xem là một trong những yếu tố quan trọng giúp các bạn thuộc chòm sao cung Song Tử gặp nhiều may mắn, khởi sắc trong sự nghiệp lẫn tình yêu. Vậy cung Song Tử hợp màu gì? Là cung hoàng đạo thuộc nhóm khí và được sao Mộc chiếu mệnh nên cung Song Tử rất giỏi giao tiếp, linh hoạt, dễ dàng dẫn dắt và làm chủ câu chuyện. Vì thế gam màu đại diện mang lại may mắn cho Gemini-er thường hướng đến màu mang nhiều năng lượng và đấy chính là màu hồng.
Ngoài ra, Song Tử cũng là cung hoàng đạo sôi nổi, thích thể hiện bản thân, tài năng và luôn tích cực, các gam màu mang tông xám, xanh lá hay trắng cũng là một trong những gam màu sắc đem lại vượng khí cho cung Song Tử. Với các bản phối outfit từ bảng màu hào quang này sẽ giúp các chàng và nàng Gemini khởi nguồn năng lượng sáng tạo, đem lại sự thuận lợi cũng như sự khởi sắc trong mọi khía cạnh cuộc sống của Song Tử.
Đây là gam màu đại diện cho thiên nhiên, mang ý nghĩa lạc quan và tích cực đặc trưng. Thường xuyên diện những thiết kế màu xanh lá sẽ tiếp thêm năng lượng tươi mới cho cuộc sống của Song Tử. Không để những ý nghĩ tiêu cực có cơ hội lấn át tâm trí, ảnh hưởng đến quyết định và phán đoán của Song Tử.
Vì mang trong mình biểu tượng song sinh, tính mâu thuẫn đã tạo nên một Song Tử linh hoạt cùng gu thời trang ấn tượng. Không chỉ biến tấu thời trang phá cách, Song Tử còn trung thành với streetwear style cùng các items kinh điển, không bao giờ lỗi mốt như áo sơ mi, jean, denim,... Chỉ cần một chiếc áo thun T-Shirt mang gam màu xanh lá phối cùng với quần short hay quần denim, layer thêm chiếc áo blazer bên ngoài giúp đem đến cho Song Tử một vẻ ngoài trẻ trung đương đại, chấm phá thêm nét phóng khoáng và cổ điển từ bộ trang phục
Gam màu trắng cũng là một trong những màu phong thuỷ hợp mệnh với chòm sao Song Tử. Mang vẻ đẹp đơn giản nhưng vô cùng tinh tế, sắc trắng là gam màu giúp Song Tử có những khởi đầu mới, cháy hết mình với đam mê công việc. Diện trên người với các thiết kế tông màu trắng sẽ đem đến cho Song Tử sự thăng hoa cùng với những nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.
Không đóng khung trong những bộ cánh an toàn, Song Tử có thể biến hóa phong cách đa dạng với sắc trắng năng động này. Bạn có thể tạo kiểu phối với phong cách white-on-white thanh lịch. Hay cá tính và bụi bặm trong bản phối áo trắng kết hợp cùng với quần short hoặc quần dài denim. Không quên nhấn nhá thêm các phụ kiện khác như: túi xách, mũ lưỡi trai, đôi sneaker hoặc basic sandal trắng,... Đây sẽ là những lựa chọn hoàn hảo cho một bộ outfit phóng khoáng, sành điệu nhưng vẫn giữ được những nét riêng độc đáo của chòm sao Gemini.
Trên đây là toàn bộ thông tin chi tiết về cung Song Tử hợp màu gì cũng như các tips phối đồ theo sắc màu may mắn cho Song Tử. Hy vọng với các gợi ý trên sẽ giúp thổi hồn vào những ý tưởng sáng tạo biến tấu style mới mẻ, khác lạ đúng chuẩn gu phong cách của các Gemini-er. Ngoài ra, Levents còn luôn cập nhập những chia sẻ về bí quyết style cũng như xu hướng thời trang của các cung hoàng đạo khác. Vì vậy, đừng quên ghé qua website tụi mình để cùng khám phá thêm nhiều bài đọc hay ho về chuỗi series này nhé!
Trần thức Thái cực quyền, Trần gia Thái cực quyền, hay Trần thị Thái cực quyền (陳式、陳家 hoặc 陳氏 太極拳) là tên gọi của trường phái Thái cực quyền của dòng họ Trần, được quyền sư nổi tiếng Trung Hoa, Trần Vương Đình (Chen Wang Ting, 陈王廷), sáng tạo vào giai đoạn Minh mạt Thanh sơ và được các thế hệ con cháu trong dòng họ trau truốt, tinh luyện qua nhiều thế hệ.
Nếu không tính đến huyền thoại về những tổ sư khai sáng Thái cực quyền, Trương Tam Phong và Vương Tông Nhạc, mà giới võ học chưa thể bạch hóa, Thái cực quyền của dòng họ Trần khởi nguồn từ Trần Vương Đình được công nhận là nguồn cội của nhiều dòng phái Thái cực quyền về sau. Trong số đó đáng chú ý là Dương thức Thái cực quyền do Dương Lộ Thiền (1799-1812); và Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812-1880) sáng lập. Hai ông học Trần thức Thái cực quyền từ cháu thứ 14 của dòng họ Trần, trong đó Dương Lộ Thiền thụ truyền từ Trần Trường Hưng (陳長興, 1771-1853) và Võ Vũ Tương sở đắc lý pháp Trần gia Thái cực quyền từ Trần Thanh Bình (陳清苹, 1795-1868).
Cuối thế kỷ 14, một người nông dân tên Trần Bốc (Chen Bu hoặc Chen Pu 陳仆) tới cư ngụ tại một làng nhỏ thuộc huyện Ôn (Wenxian), tỉnh Hà Nam, phía Bắc sông Hoàng Hà (Huanghe). Ông là người tỉnh Sơn Tây (Shanxi), và là tổ của gia đình họ Trần. Làng mà ông tới cư ngụ về sau được gọi là Trần Gia Câu (Chenjia Gou, 陳家沟)[1]. Theo một số người trong gia tộc họ Trần, môn võ (Thái cực quyền) khởi nguyên từ tổ phụ Trần Bốc, tuy nhiên nhiều học giả đã bác bỏ điều này và thừa nhận chính Trần Vương Đình (Chen Wangting, 1600-1680) mới là khởi nguyên của Thái cực quyền dòng họ Trần.
Trần Vương Đình sống vào cuối đời Minh đầu nhà Thanh, là người đất Ôn, tỉnh Hà Nam, đời thứ 9 của dòng họ Trần ở Trần Gia Câu. Trong thời nhà Minh, Trần Vương Đình từng giữ chức vụ tuần phủ, án sát Sơn Đông, Trực Lệ, tỉnh Hà Bắc và là Liêu Đông kiêm chức giám quân, chống nhau với giặc Thanh hơn 4 năm. Quyển Trần thị Gia phổ (陳家氏譜 Chenshi Jia Pu) có ghi: Ông sinh vào cuối triều đại nhà Minh đầu triều đại nhà Thanh, danh tiếng tại tỉnh Sơn Đông, đánh đuổi quân cướp, và là người đầu tiên đem vào gia đình ông môn quyền, đao và thương, ông thường sử dụng cây đại đao[1].
Năm 1644 khi nhà Minh mất, Trần Vương Đình lui về ẩn cư. Từ đây ông tập trung nghiên cứu, tổng hợp các môn võ thuật đương thời[2], lấy 29 thức trong số 32 thức của Quyền kinh của Thích Kế Quang, để cải tạo thành một bài riêng truyền lại cho con cháu. Thái cực quyền được Trần Vương Đình truyền lại cho con cháu trong họ, đời đời luyện tập và không ngừng cải tiến tinh luyện. Cuốn Trần thị gia phổ cũng cho biết Trần Vương Đình tuy đem vào dòng họ 3 môn quyền, đao, thương, nhưng các đời về sau chỉ còn truyền lại quyền mà thôi.
Trước thế kỷ 14, theo Trần thị gia phổ hệ thống võ học của dòng họ Trần bao gồm 7 quyền lộ: Đầu sáo quyền (Toutaoquan) còn được gọi Thập tam thức (Shisan Shi); Nhị sáo quyền (Ertaoquan); Tam sáo quyền (Santaoquan) còn được gọi là Đại tứ sáo trùy (Dasitaochui); Tứ sáo quyền (Sitaoquan) còn được gọi là Hồng quyền (Hongquan) hay Thái tổ hạ nam đường (Tauzu Xia Nantang); Ngũ sáo quyền (Wutao quan); Trường quyền (Chang quan) còn được gọi là Nhất bách linh bát thức (Yibailingba Shi); Pháo trùy (Paochui)[1]. Hệ thống kỹ thuật này còn kiêm các công phu Đoản đả (Duanda); Tán thủ (Sanshou); Kiều thủ (Jishou); Lược thủ (Lueshou); Sử thủ (Shushou), Tam thập lục cổn diệt (Sanshiliu Gunyue); Kim cang thập bát noa pháp (Jingang Shiba Nafa). Ngoài ra là binh khí với Đơn đao (Dandao); Song đao (Shuangdao); Song kiếm (Shuangjian); Song giản (Shangjian), Bát thương (Baqiang); Bát thương đối thích pháp (Baqiang Dui Cifa); Thập tam thương (Shisanqiang); Hoàn hậu Trương Dực Đức tứ thương (Huan Hou Zhang Tesi qiang); Nhị thập tứ thương (Ershisiqiang Lianfa); Bàng la bảng (Panluobang) Xuân thu đao (Chungqiuđao); Bàng la bảng luyện pháp (Panluobang Lianfa); Tuyền phong côn (Xuanfenggun); Đại chiến phác liêm (Dazhan polian)[1]. Trong hệ thống quyền pháp Trần gia nổi lên 2 quyền lộ chính: Trường Quyền vốn xuất xứ từ quyền pháp của Thích Kế Quang dài và phức tạp, và Thập Tam Thức vốn lấy từ Thái cực quyền Phổ của Vương Tông Nhạc. Tuy vậy, Trần gia Thái cực quyền chủ yếu vẫn là Trường Quyền, còn Thập Tam Thức do con cháu họ Trần học lại từ Vương Tông Nhạc về sau[cần dẫn nguồn].
Cho đến thời cận đại, đời thứ 14 của dòng họ Trần vào thế kỷ 19, Thái cực quyền của dòng họ Trần phát sinh thành hai nhánh. Một chi nhánh xuất từ Trần Sở Nhạc (Chen Suoyue) truyền bởi Trần Hữu Bản (Chen Youben 陈有本) và Trần Hữu Hằng (Chen Suoyue). Một chi nhánh khác xuất phát từ Trần Trường Hưng (Chen Changxing hoặc Ch'en Chang-hsing 陳長興, 1771-1853). Trong khi Trần Trường Hưng vẫn đi theo hệ thống gia truyền gọi là Lão giá ("Thái cực quyền Trần gia Lão giá", hay "Thái cực quyền Trần gia Đại giá"), Trần Hữu Bản đã cải tiến Thái cực quyền do tổ phụ để lại thành hệ thống Tân giá (xinjia 新架) (Thái cực quyền Trần gia Tân giá). Tuy vậy, hệ thống Tân giá Thái cực quyền vẫn dựa chủ yếu trên nền Lão giá. Theo truyền thuyết, ba quyền sư này đã tóm gọn lại quyền giá, từ 7 bài quyền xưa chỉ còn lại 2 bài: Đệ nhất lộ (Diyliu) và Pháo trùy quyền (Paochui). Về sau, Trần Thanh Bình (Chen Qingping hoặc Ch'en Ch'ing-p'ing 陳清苹, 1795-1868) lại sáng tạo thêm các động tác mới và cải tiến quyền thức gọn gàng hơn, hình thành nên Tiểu giá (xiao jia 小架) Thái cực quyền, là bộ thứ 2 trong Tân giá quyền thức của Trần gia[3]. Kỹ pháp do Trần Thanh Bình nhuận sắc và truyền dạy cũng được gọi là Bảo giá hay Triệu Bảo gia Thái cực quyền.
Vào thế kỷ 20, Chi nhánh Trần thức Đại giá khởi nguồn từ Trần Trường Hưng lại chia ra hai chi phái Bảo giá của Trần Chiếu Phi (Chen Zhaopi, 1893-1972) và Tân giá của Trần Phát Khoa (Chen Fake, 1887-1957)[1].
Trần Trường Hưng (Trần gia Lão giá) có dạy Thái cực quyền ra ngoài nội tộc. Hai học trò được biết nhất là Dương Lộ Thiền (Yang Luchan) và Lý Bá Khôi (Li Bokui) và sau này, Dương Lộ Thiền là người thành lập chi phái Dương thức Thái cực quyền. Từ Dương thức Thái cực quyền, nhờ Ngô Giám Tuyền (1870–1942), cũng đã khai sinh dòng Ngô thức Thái cực quyền.
Từ các đệ tử của Trần Thanh Bình (Trần gia Tiểu giá), đã sinh thành các lưu phái Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812–1880) sáng lập; Hòa gia Thái cực quyền (Hijia Taiji Quan) lập bởi Hòa Triệu Nguyên (HeZhaoyuan, 1810-1890), Tam hợp nhất Thái cực quyền (Sanheyi Taiji Quan) lập bởi Trương Kính Chi (Zhang Jingshi)[1]. Đệ tử của Võ thức Thái cực quyền, Tôn Lộc Đường về sau khai sinh Tôn thức Thái cực quyền.
Đặc điểm của Trần thức Thái cực quyền có thể tóm lược trong 8 yếu lĩnh được Trần thị quyền phổ quy định:
Bài quyền thứ nhất, hay "Đệ nhất lộ", có đặc điểm là động tác rõ ràng, đơn giản, nhu nhiều cương ít, lấy tứ chính kình bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) vận dụng làm chính và tứ ngung thủ thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm phụ. Phương pháp dụng lực lấy "triền ty kình" (kình lực xoắn ốc như quấn tơ) làm chính và phát kình làm phụ[4]. Động tác của bài khoan thai, mềm mại, vững chắc và chậm rãi, thích hợp cho dưỡng sinh.
Bài quyền thứ hai, còn gọi là "Pháo chùy quyền", có động tác phức tạp hơn, đòi hỏi sự nhanh nhẹn, gọn gàng, cương nhiều nhu ít, vận kình với thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm chính và bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) làm phụ[4]. Động tác của bài cứng rắn, mau lẹ, có nhiều động tác nhảy nhót né tránh, thích hợp trong thực chiến.
Dưới đây là tên chiêu thức trong 2 bài của Trần gia Thái cực quyền, do quyền sư Trần Phát Khoa (Chén Fākē hoặc Ch'en Fa-k'e 陳發科, 陈发科 1887-1957) và con trai là Trần Chiếu Khuê (Chen Zhaokui 陳照奎, 1928-1981) biểu diễn, phân thế:
Là những bài tập nhằm ứng dụng Thái cực quyền trong chiến đấu, kỹ thuật thôi thủ[7] của Trần thức Thái cực quyền thực hiện bộ pháp một tiến một lùi, cũng có thể tiến liên tục hoặc lùi liên tục. Thủ pháp cơ bản là "bằng", "lý", "tê", "án" gọi là tứ chính thủ và thủ pháp nâng cao là "thái", "liệt", "chẩu", "kháo" gọi là tứ ngung thủ, đại lý hay đại kháo[8].
Sau khi thành thục cả tứ chính thủ và tứ ngung thủ, tiến tới bước tán thủ hay còn gọi là loạn thác hoa, tức phương thức thôi thủ không câu nệ bước chân[9].
Thái cực là một trạng thái phát sinh từ
Thái cực (太極) là một thuật ngữ triết học Trung Hoa miêu tả tính toàn thể không hề phân chia của trạng thái hoàn toàn sơ khai hoặc để nói về tiềm năng vô tận, trái ngược với Vô cực (無極) – nghĩa là không có bắt đầu, không có kết thúc. Khái niệm "thái cực" chủ yếu được biết đến nhờ môn võ "Thái cực quyền" (太極拳).
Từ ghép tiếng Hoa "thái cực" có "thái" (太) nghĩa là "rất lớn", "cực đại" (một từ so sánh, gần nghĩa với từ "đại" (大) nghĩa là "to", "lớn"); còn "cực" (極) có nghĩa là "điểm tận cùng", "chỗ cao/xa nhất".
Khái niệm "thái cực" được tìm thấy trong nhiều trước tác cổ của nhiều trường phái triết học Trung Hoa.
Zhang và Ryden giải thích sự cần thiết về mặt bản thể học của khái niệm "thái cực":
Bất cứ trường phái triết học nào nhấn mạnh sự phân đôi, ví dụ như "học thuyết âm-dương" của triết học Trung Quốc đều cần một khái niệm để kết hợp chúng lại để đảm bảo cả hai nửa đó đều thuộc về một không gian lý luận chung. Khái niệm "thái cực" được nói đến trong Kinh Dịch. Vào thời Nhà Tống, "thái cực" trở thành một khái niệm trừu tượng, gần như cùng nghĩa với khái niệm "đạo". (2002:179)
Triết gia đạo Lão Trang Tử đã giới thiệu khái niệm "thái cực". Trong sách "Nội Thiên" (thế kỷ III trước Công Nguyên), ông đối lập "thái cực" với khái niệm "lục cực" (六極):
Đạo có thuộc tính và biểu hiện, nhưng nó không có hành động và hình dạng. Nó có thể được luân chuyển, nhưng không thể thu nhận được. Nó có thể được nắm bắt, nhưng không thể nhìn thấy. Từ gốc, từ nguồn, đã ở đó trước cả trời và đất, nó thật sự tồn tại vĩnh viễn. Nó tạo hồn cho Chúa trời và quỷ dữ, nó sinh ra trời và đất. Nó ở trên đỉnh trời nhưng không cao, nó ở dưới đáy đất nhưng không sâu. Nó có trước trời đất, nhưng không xưa; nó cổ hơn ngày xưa, nhưng không già" (tr. Mair 1994:55)
Vào thế kỉ II trước Công nguyên, Hoài Nam Tử đề cập đến "thái cực" trong sách "Chân nhân" (真人). Ông cho rằng "thái cực" là cái toàn thể bao trùm bộ phận, ví dụ như âm và dương.
Fu-sui 夫煫 (nghĩa đen là "gương cháy") gom lửa từ mặt trời; bậc phương chư (方諸 – nghĩa đen là "gương trăng", "phương" có nghĩa là "vuông", "mặt đất", cũng có nghĩa là "nghề", "thuật", "đạo đức"; "chư" là "những", "các") gom sương từ Mặt Trăng. Đó là những gì được chứa đựng giữa Trời và Đất, ngay cả một bậc thầy tính toán cũng không đếm được là bao nhiêu. Do vậy, dù đôi tay có thể cầm và nhận biết những thứ rất nhỏ, chúng không thể nắm giữ được ánh sáng của Mặt Trăng mặt trời. Chính là với bàn tay vươn ra nắm bắt (tức là với quyền lực của người ta) mà ta có thể đạt được những thứ thuộc về một phần nào đó của "thái cực"; ngay lúc đó, người ta có thể tạo ra cả nước lẫn lửa. Đó là bởi vì cả âm lẫn dương đều có cùng một chất khí, và chúng làm dịch chuyển nhau. (tr. Le Blanc 1985:120-1)
"Thái cực" cũng được nói đến trong phần "Hệ từ" (繫辭) bàn luận về Kinh Dịch, một phần đã được viết từ rất xưa, mà người ta cho rằng tác giả là vua Chu Văn Vương và Chu Công Đán.
Do đó, nó là dịch ở thời điểm khởi đầu. Rồi nó phân thành lưỡng nghi (兩儀). Lưỡng nghi sinh tứ tượng (四象). Tứ tượng sinh bát quái (八卦). Bát quái quyết định may rủi. May rủi tạo nên hàng loạt hành động. (tr. Wilhelm and Baynes 1967:318-9)
Richard Wilhelm và Cary F. Baynes giải thích:
Định đề cơ bản của trạng thái khởi đầu sơ khai dựa trên đó mọi vật được sinh thành và tồn tại chính là "thái cực". Sau này, các nhà tư tưởng Ấn Độ cũng dành tâm sức để lĩnh hội về trạng thái sơ khai này. Một trạng thái khác, "vô cực" - trạng thái khởi đầu tĩnh được mô tả bằng vòng tròn. Cùng với nó, "thái cực" được tượng trưng bằng vòng tròn phân đôi của ngày và đêm, âm và dương. Biểu tượng này cũng đóng vai trò quan trọng ở Ấn Độ và châu Âu. Tuy nhiên, ban đầu, tính phân đôi của "thái cực" là một khái niệm xa lạ đối với Kinh Dịch; Kinh Dịch chỉ miêu tả về "cực" và "đạo". "Đạo", với nghĩa đen là "con đường", diễn tả "cái duy nhất", nhưng "con đường" cũng hàm ý trên dưới, trái phải, trước sau; do đó, "đạo" cũng ngầm miêu tả sự phân đôi của hai mặt đối lập. (1967:lv)
Triết gia đời Tống Chu Đôn Di (1017-1073 CE) viết "Thái Cực Đồ thuyết" và đã trở thành hòn đá tảng đối với vũ trụ quan của các nhà nho phái "Tống Minh". Tác phẩm của ông tổng kết nhiều khía cạnh của đạo Phật Trung Hoa và đạo Lão, cùng nhiều luận giải các khái niệm trừu tượng trong Kinh Dịch.
Các thuật ngữ chính mà ông nói đến trong "Thái Cực Đồ thuyết" là "thái cực" và "vô cực":
"Vô cực" là chưa thành "thái cực". "Thái cực" hoạt động tạo ra dương, khi chuyển động đến giới hạn, nó trở nên tĩnh. Trong tĩnh, nó tạo ra âm, tới cực đại, nó lại hoạt động. Động và tĩnh chuyển hóa, cái này là nền của cái kia. Khi âm và dương đã phân hóa, hai trạng thái xuất hiện. Sự chuyển hóa và kết hợp của âm và dương tạo ra kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Với ngũ hành, các thời kỳ biến đổi của khí được sắp xếp hài hòa, qua đó bốn mùa được tiếp diễn. Ngũ hành đơn giản là âm và dương, âm và dương chẳng qua chính là thái cực, thái cực có nền tảng từ vô cực. Do vậy, trong quá trình tạo ra ngũ hành, mỗi hành đều chứa đựng bản chất riêng của nó. (tr. Adler 1999:673-4)
Chu Hi mô tả "thái cực" là khái niệm đồng nhất với âm và dương, và nhấn mạnh:
"Thái cực" không phải là vật. Vì vậy, cả đối với cả Châu và Chu, "thái cực" là nguyên lý âm dương của song cực, chính là nguyên lý cơ bản nhất, nguyên lý đầu tiên của vũ trụ. "Vô cực" đến sau.
"Thái cực" được hiểu là trật tự cao nhất có thể nhận thức được, với nó, sự tồn tại lưu chuyển. Nó rất gần nghĩa với khái niệm Đạo giáo: "sự đảo ngược chính là sự dịch chuyển của đạo". "Thái cực" tạo ra âm dương: động tạo ra dương, khi dương lên đến cực đại, nó chuyển hóa thành tĩnh. Trên nền tĩnh tại, thái cực tạo ra âm. Khi âm cực đại, lại chuyển hóa thành động. Động và tĩnh, trong vòng tuần hoàn đó, là nguồn gốc của nhau. Sự phân hóa giữa âm và dương được xác định và hai trạng thái âm dương được bộc lộ. Từ sự chuyển hóa của dương và sự kết hợp của âm, "ngũ hành"- kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ra đời. Khi ngũ hành phân hóa, chúng tạo ra sự hài hòa. Khi đã có sự hài hòa, 4 mùa xuất hiện. Âm và dương tạo ra vạn vật, và vạn vật lại tiếp tục tạo ra nhiều thứ khác; quá trình này không bao giờ dứt. (Wu, 1986)